Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

SOaN BaI Va ToI VaN MUoN Me SaCH KeT NoI TRI THuC

Chủ đề về mẹ luôn là một chủ đề rất hay và được khai thác nhiều trong văn học. Và bài soạn dưới đây cũng là một bài soạn về chủ đề thiêng liêng ấy. Cùng VUIHOC trả lời những câu hỏi thuộc phần Soạn bài và tôi vẫn muốn mẹ sách kết nối tri thức 11 tập 2 ngay nhé!

1. Soạn bài và tôi vẫn muốn mẹ sách kết nối tri thức: Trước khi đọc 

1.1 Câu 1 trang 41 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Hãy chia sẻ câu chuyện cảm động liên quan đến tình cảm mẹ con mà bạn từng biết thông qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, sân khấu hoặc điện ảnh...).

Phương pháp giải:

Dựa vào những hiểu biết của bản thân để có thể trả lời câu hỏi này. 

Lời giải chi tiết:

Câu chuyện cảm động nhất nói về tình mẫu tử mà em được biết đó là câu chuyện của Fantine và con gái của cô trong truyện Những người khốn khổ. Trong truyện, vì không có tiền để nuôi con gái, cô đã gửi đứa con bé bỏng của mình cho một gia đình khác và hàng ngày đi làm quần quật kiếm tiền để chu cấp cho con. Đến khi con cô bị ốm còn cô thì bị mất việc, cô trở thành gái điếm, sau đó bán cả răng và tóc của mình để có tiền mua thuốc cho con gái mình. Và cho đến khi chết, cô vẫn mong muốn cứu được con gái mình. Đó là một ví dụ điển hình cho tình mẫu tử thiêng liêng mà em được biết.  

1.2 Câu 2 trang 41 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức 

Qua thực tế cuộc sống xung quanh, bạn biết được những gì về hậu quả mà chiến tranh gây ra đối với cuộc sống con người?

Phương pháp giải:

Dựa vào kiến thức được biết của bản thân. 

Lời giải chi tiết:

Qua cuộc sống thực tế xung quanh, em đã biết được chiến tranh luôn mang tới những hậu quả nghiêm trọng đối với cuộc sống của chúng ta. Những hậu quả đó là:

- Các thương binh cùng với các bệnh nhân chất độc màu da cam…

- Những nỗi đau về tinh thần, đó là những dư chấn của chiến tranh, những ám ảnh về chết chóc và bom đạn, nỗi đau khi bị mất đi người thân hay gia đình bị ly tán…

- Môi trường bị ô nhiễm một cách nghiêm trọng bởi những chất thải hóa học sử dụng để chế tạo bom mìn, các chất độc hóa học đã giải xuống mặt đất không chỉ gây hại đối với con người mà còn phá hủy đi những cánh rừng, động vật tự nhiên cũng bị mất đi môi trường sống.

- Phá hủy vô vàn những công trình được xây dựng vĩ đại của nhân loại

- Nguy cơ khủng hoảng nền kinh tế nghiêm trọng,...

2. Soạn bài và tôi vẫn muốn mẹ sách kết nối tri thức: Trong khi đọc 

2.1 Câu 1:  Thời điểm và những sự kiện ban đầu đã xảy ra được lưu giữ vào trong kí ức của nhân vật.

Phương pháp giải:

Chú ý đến đoạn đầu của tác phẩm. 

Lời giải chi tiết:

- Thời điểm: năm 1941

- Sự kiện: tác giả đã học xong lớp một và tham gia vào một trại hè đội viên ở Gô-rô-đi-sa. 

2.2 Câu 2: Những hình ảnh mà nhân vật chứng kiến trên đường đi trại hè đội viên.

Phương pháp giải:

Chú ý vào diễn biến kế tiếp của câu chuyện. 

Lời giải chi tiết

Tác giả đã vô cùng vui sướng khi nhìn thấy những chiếc máy bay Đức nhưng cũng hiểu ra rằng sự chết chóc đang tới dần khi chiếc máy bay ấy ném bom xuống. 

2.3 Câu 3: Hoàn cảnh của chuyến đi có gì khác thường?

Phương pháp giải:

Chú ý hoàn cảnh của chuyến đi. 

Lời giải chi tiết:

Hoàn cảnh của chuyến đi này khác thường ở chỗ họ đang được đưa tới nơi không có chiến tranh – cái gọi là hậu phương, nhưng cứ đi tới đâu là quân Đức chuẩn bị đánh tới đấy và họ mãi mới có thể dừng chân tại Mô-đô-vi-a. 

2.4 Câu 4: Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống của con người trong đói khát.

Phương pháp giải:

Chú ý vào diễn biến câu chuyện tiếp theo. 

Lời giải chi tiết:

Ấn tượng về nạn đói cùng với chuyện ăn uống của con người trong đói khát của tác giả vô cùng khủng khiếp. Khi nạn đói ập tới, họ không có gì ăn cả, thậm chí họ đã phải giết cả con ngựa già để ăn nó và giấu diếm việc đó để bọn trẻ có thể ăn. Và thật may mắn vì lũ mèo quá gầy cho nên họ đã không phải ăn chúng. Tình cảnh ấy thật sự đáng thương. 

2.5 Câu 5: Trạng thái tinh thần của những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ.

Phương pháp giải:

Chú ý vào nội dung của đoạn tiếp theo từ đoạn “Chúng tôi đi với những cái bụng ỏng… khóc không nguôi.” 

Lời giải chi tiết:

Những đứa trẻ đều rất nhớ mẹ của chúng, đến nỗi mà khi nghe thấy từ “mẹ” thì tất cả đều bật khóc, những cô bảo mẫu đã kể chuyện cho chúng và luôn tránh nhắc tới từ đó, những đứa trẻ này quá tội nghiệp. 

2.6 Câu 6: Kết quả chờ đợi ba mẹ và niềm khát khao cháy bỏng của nhân vật.

Phương pháp giải:

Chú ý vào diễn biến đoạn cuối. 

Lời giải chi tiết:

Sau bao nhiêu năm, trải qua biết bao nhiêu sóng gió, tác giả vẫn không thể chờ đợi được ba mẹ của mình và khi ở độ tuổi hiện tại, khi đã năm mươi mốt tuổi, tác giả vẫn muốn gặp lại mẹ của mình như mình ở chục năm về trước, trong hình hài của một đứa bé. 

3. Soạn bài và tôi vẫn muốn mẹ sách kết nối tri thức: Sau khi đọc

3.1 Câu 1 trang 44 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Hãy tóm lược nội dung được kể ở trong văn bản và cho biết những điểm nhấn quan trọng trong câu chuyện. 

Phương pháp giải:

Chú ý vào những diễn biến của truyện. 

Lời giải chi tiết:

Truyện kể về một nhân vật tôi, vào năm tốt nghiệp lớp một và đang được tham gia một chuyến đi trại hè thì chiến tranh đã nổ ra. Nhân vật tôi cùng hàng chục đứa trẻ khác được đưa đi sơ tán sau đó sinh sống trong trại trẻ mồ côi. Tình cảnh của chúng vô cùng khó khăn khi luôn phải chịu đựng cảnh đói khát và di tán. Rồi nhân vật tôi cũng trốn ra và sống cùng với một gia đình nghèo khó ở ngoài. Và nhân vật tôi vẫn luôn ấp ủ niềm mong muốn tìm được mẹ của mình nhưng không thấy kết quả. Cho đến ngày nay, khi tôi đã 51 tuổi, mong muốn đó vẫn còn.

3.2 Câu 2 trang 44 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Chỉ ra những yếu tố đã tạo nên tính xác thực của những sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước những sự kiện đó. 

Phương pháp giải:

Dựa vào những yếu tố mang tính xác thực ở trong truyện. 

Lời giải chi tiết:

Những yếu tố tạo nên tính xác thực của những sự kiện được nhân vật kể lại đó là tháng và năm mà sự kiện diễn ra; địa điểm được nêu ra cũng cụ thể và đầy đủ; các sự việc đều diễn ra rất liền mạch và được thể hiện rő ràng thông qua cảm nhận của tác giả.

3.3 Câu 3 trang 44 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Phân tích một số chi tiết và hình ảnh tạo ra bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản. Chi tiết và hình ảnh nào đã thực sự gây ấn tượng mạnh với em? Vì sao? 

Phương pháp giải:

Chú ý vào những sự kiện được tác giả kể ra. 

Lời giải chi tiết:

* Cuộc sống nghèo đói và khổ cực

- không có chỗ nằm ngủ, chúng tôi đành chợp mắt trên rơm rạ…

- rồi nạn đói bắt đầu

- … người ta gọi đi ăn trưa, nhưng chẳng có gì để ăn.

- người ta giết Mai-ca. Và cho chúng tôi nước cùng một mẩu thịt rất nhỏ…

- …có thể ăn cả xô xúp, bởi trong xúp chẳng có gì.

- chúng tôi ăn hết tất cả chồi mầm, chúng tôi tước cả lớp vỏ non…

→ Đó là tình cảnh của cuộc sống phải di tản bởi chiến tranh. Ở đó, những đứa trẻ đáng ra được nhận tình yêu thương lại phải chịu cái cảnh nay đây, mai đó, không có đủ thức ăn để ăn mà chỉ có thể gắng gượng để sống sót bằng cách ăn bất cứ thứ gì mà chúng có.

* Cuộc sống thiếu vắng đi tình yêu thương của mẹ

- Những đứa trẻ nhỏ, chúng tôi có khoảng bốn mươi đứa… chúng tôi khóc rền. Gọi ba gọi mẹ.

- Cô bảo mẫu và giáo viên cố không nhắc đến từ “mẹ”…

- … ai đó bất ngờ nhắc đến mẹ, lập tức tất cả khóc òa

→ Đó chính là tiếng khóc của những đứa trẻ vô cùng đáng thương, chúng còn quá bé để xa mẹ. Chúng ngày đêm mong ngóng đến ngày được gặp lại ba mẹ của mình trong vô vọng. 

3.4 Câu 4 trang 45 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà phải nếm trải những ngày tháng đau thương khi còn nhỏ, tác giả là người ghi lại. Vậy trong việc tạo văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại sự kiện mà nhân chứng kể lại.

Phương pháp giải:

Chú ý vào tâm tư và tình cảm của nhân vật tôi. 

Lời giải chi tiết:

Toàn bộ câu chuyện được kể từ một người vì chiến tranh mà đã phải trải qua những ngày tháng đau thương khi còn nhỏ, tác giả là người ghi lại.

Trong việc tạo lập văn bản ấy, tác giả đóng vai trò như một người kể chuyện – người chứng kiến toàn bộ và cũng tham gia trực tiếp vào câu chuyện này. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể đều thấy cụ thể thời gian và địa điểm rő ràng; mọi người lúc ấy ra sao; trong tình cảnh như thế nào… tất cả được nhân vật tôi chứng kiến rồi kể lại. Bởi có lẽ đó là một phần trong ký ức kinh hoàng, đáng sợ về những năm tháng tuổi thơ gắn liền với chiến tranh, sống trong sự lo sợ, đói nghèo và thiếu vắng đi tình thương. Tác giả luôn cảm thông và muốn chia sẻ với mọi người xung quanh, là một đứa trẻ rất hiểu chuyện và sống có tình cảm. Đặc biệt đó là nỗi nhớ mẹ, cậu bé đó ngày đêm mong ngóng và hỏi han về mẹ của mình, rồi bắt đầu hành trình đi tìm kiếm trong vô vọng. Để cuối cùng, sau bao nhiêu năm tháng trôi qua, nỗi ám ảnh về những năm tháng ấy vẫn còn và cậu bé ngày nào đã lớn lên, nhưng cậu vẫn luôn muốn được gặp mẹ - cảm xúc đó vẫn không thay đổi suốt bấy nhiêu năm trôi qua. 

3.5 Câu 5 trang 45 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Theo em, những yếu tố nào có vai trò tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc? Thông điệp mà em nhận được từ văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ..." là gì? 

Phương pháp giải:

Chú ý vào thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm. 

Lời giải chi tiết:

Theo em, những yếu tố có vai trò tạo nên sức lay động cho văn bản đối với người đọc chính là sự chân thực trong từng câu chuyện. Mỗi sự việc trong câu chuyện đều được tác giả kể lại một cách hết sức ngắn gọn và cô đọng bằng chính những cảm xúc chân thật của mình – của một người đã từng trải qua hết những câu chuyện đó. Những tình cảm trong đó đều hết sức chân thật, nó gắn liền với từng sự kiện và hoàn cảnh một cách hoàn hảo.

Và thông qua văn bản này, em nhận ra được rằng: chiến tranh là khởi nguồn cho mọi bất hạnh. Chúng ta cần phải đấu tranh để có thể ngăn cản nó. Cậu bé trong truyện và bạn của cậu là hình ảnh của chúng ta khi gặp phải chiến tranh, nó khổ sở, thiếu thốn và đau đớn tới nhường nào. Và cái chúng ta thấy mới chỉ là những thứ diễn ra ở hậu phương, còn ngoài chiến trường, sự chết chóc là vô kể, mọi thứ đều sẽ vô cùng khủng khiếp khi chiến tranh xảy ra, bằng mọi cách chúng ta phải ngăn chặn nó. 

4. Kết nối đọc viết 

Qua những gì được văn bản cung cấp, hãy viết một đoạn văn (dài khoảng 150 chữ) phân tích ý nghĩa của hai câu cuối: “Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ."

Phương pháp giải:

Dựa vào ý hiểu của bản thân em về tác phẩm và 2 câu cuối của truyện để có thể trả lời câu hỏi này. 

Lời giải chi tiết:

Hai câu cuối trong truyện như lời tâm sự thầm kín từ tận đáy lòng của nhân vật tôi. Chiến tranh cũng đã qua đi, ông đã may mắn sống sót và có một cuộc sống mới với gia đình và 2 đứa con của mình, dù cho những ký ức về năm tháng tuổi thơ gắn liền với chiến tranh vẫn còn đó. Hai câu cuối đã phản ánh về hậu quả của chiến tranh để lại đối với thời thơ ấu của đứa trẻ ngày nào. Họ đều lớn lên, nhận thức được tất cả mọi thứ nhưng sự thiếu thốn tình mẹ vẫn còn đấy, trong thân xác của một người đã lớn tuổi, cậu vẫn nhớ đến mẹ mình, vẫn mong muốn được gặp mẹ và được mẹ ôm trong vòng tay ấm áp đó. Đó là niềm khao khát cũng là sự mong mỏi trong vô vọng của một đứa trẻ đã từng trải qua chiến tranh. Nó cũng nhắc nhở chúng ta một điều: có những câu chuyện sẽ chẳng thể quên được cho dù thời gian có trôi đi. 

Bài viết trên giúp các em chuẩn bị những câu hỏi cho phần Soạn bài và tôi vẫn muốn mẹ sách kết nối tri thức 11 tập 2. Hy vọng rằng sau khi các em tham khảo bài viết thì có thể hiểu được phần nào thông điệp tác giả muốn gửi gắm. Để học thêm nhiều tác phẩm khác thuộc chương trình ngữ văn 11 hoặc nội dung các môn học khác, các em hãy nhanh chóng truy cập vào website vuihoc.vn rồi đăng ký khoá học của VUIHOC để có thể học được nhiều kiến thức hay nhất cùng các thầy cô nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-va-toi-van-muon-me-sach-ket-noi-tri-thuc-11-tap-2-2423.html

 

 

Tovább

Soan bai Ai da dat ten cho dong song

Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm văn học rất quan trọng trong chương trình Ngữ văn THPT. Trong bài viết này, VUIHOC sẽ cùng các bạn Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông thuộc sách kết nối tri thức 11 tập 2 cùng giải quyết một số câu hỏi luyện tập trong sách nhé.

1. Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông sách kết nối tri thức: Trả lời câu hỏi trước khi đọc văn bản

1.1 Câu 1 (trang 35, SGK Ngữ Văn 11, tập hai)

Bạn hãy kể về một kỉ niệm đáng nhớ đối với dòng sông bạn đã từng biết?

Lời giải chi tiết:

Em đã từng có rất nhiều kỉ niệm đáng nhớ và gắn liền với dòng sông ở quê em – nơi mà em đã sinh ra và lớn lên. Con sông to lớn cũng gắn liền với những năm tháng tuổi trẻ còn đầy những sự hồn nhiên, vui tươi. Đó là khoảng thời gian đặc trưng bởi những ngày hè đầy nóng nực, em cùng với lũ bạn cùng nhau đi té nước ven sông, câu cá về ăn chung với cơm… Đây cũng là một phần của kỷ niệm hiện lên và vô cùng tuyệt vời và đáng nhớ đối với em. 

>> Mời bạn xem thêm: Soạn văn 11 đầy đủ 

1.2 Câu 2 (trang 35, SGK Ngữ Văn 11, tập hai)

Hãy chia sẻ những ấn tượng của bạn về hình ảnh về một dòng sông đã được tái hiện thông qua các tác phẩm văn học hoặc thông qua các loại hình nghệ thuật đặc sắc khác (âm nhạc, hội họa, điện ảnh…) 

Lời giải chi tiết:

Bản thân em lại rất ấn tượng với một hình ảnh con sông là sông Đà đã được thể hiện một cách xuất sắc ở trong tác phẩm Người lái đò sông Đà. Bởi đó cũng là một con sông rất đỗi hùng vĩ, dữ dội, thể hiện được rất rő vẻ đẹp đầy hoang dã, huyền bí của đất trời thiên nhiên và cảnh vật của vùng Tây Bắc.

2. Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông sách kết nối tri thức: Trả lời câu hỏi trong khi đọc văn bản 

2.1 Câu 1 trang 34 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức 

Hình ảnh con sông Hương ở đoạn thượng nguồn. 

Lời giải chi tiết:

- Sông Hương mang một vẻ đẹp tự do, phóng khoáng, hoang sơ nhưng cũng đầy bản lĩnh. Nét phóng khoáng cùng với sức sống mãnh liệt của nó làm cho con sông Hương trở nên vừa mạnh mẽ nhưng cũng rất lôi cuốn.

- Nét thơ mộng và trữ tình của dòng sông Hương cũng rất đặc biệt. Đây là một vẻ đẹp rất dịu dàng, đầy cảm xúc và khá sâu lắng, tạo nên cho dòng sông Hương một vẻ đẹp rất riêng biệt.

2.2 Câu 2 trang 34 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Nét độc đáo đã được thể hiện trong cách ví von, so sánh. 

Lời giải chi tiết:

Tác giả đã sử dụng một cách rất hài hòa về biện pháp so sánh, so sánh hình ảnh con sông Hương trong những trạng thái rất khác nhau  có khi là đối lập bằng những hình ảnh rất là đặc trưng và chứa đầy sự sáng tạo như ví von con sông Hương giống như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, hay một vẻ thiên nhiên hoang dại như “cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”…

→ Làm nổi bật rő nét được một vẻ đẹp thiên nhiên đầy hoang dại, sức sống cực kỳ mãnh liệt, đầy cá tính của dòng sông Hương thuộc xứ Huế. 

2.3 Câu 3 trang 35 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Hình ảnh của con sông Hương khi đi ra giữa đồng bằng ở ngoại vi của thành phố Huế. 

Lời giải chi tiết:

- “người con gái nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa”

- “uốn mình theo những đường cong thật mềm”

- dòng sông chuyển hướng liên tục tạo dáng vẻ thướt tha, yểu điệu của người thiếu nữ

- “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”

- … 

2.4 Câu 4 trang 35 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Hình ảnh con sông Hương hiện lên trong lòng thành phố Huế. 

Lời giải chi tiết:

- “sông Hương vui tươi hẳn lên giữ những bãi xanh biếc của vùng…”

- “những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị…”

- “… sông Hương khi trôi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.

2.5 Câu 5 trang 37 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Cách đối sánh để làm nổi bật lên được nhịp chảy đặc biệt của dòng sông Hương. 

Lời giải chi tiết:

Tác giả đã đem so sánh điệu chảy yên bình, lặng lờ của dòng sông Hương giống như đang vấn vương một nỗi buồn lòng khó tả.

Đặc biệt, hình ảnh của dòng nước trôi êm đềm, nhè nhẹ dường như đang đong đưa theo trong mình một tứ tâm trạng nặng trĩu nào đó, có thể là nỗi buồn bã hay sự nhớ nhung, tưởng chừng như là nỗi đau lòng của chính dòng sông. Tất cả tạo nên một nhịp điệu dịu dàng của dòng nước, chậm rãi và lẳng lặng chảy.

2.6 Câu 6 trang 38 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Sự gắn bó chặt chẽ của dòng sông Hương với dòng âm nhạc cổ điển Huế. 

Lời giải chi tiết:

- “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong những khoang thuyền, giữa tiếng nước rơi bán âm của mái chèo khuya…”

→ Tất cả các yếu tố đóng góp vào việc khẳng định được cái hồn và bản chất của âm nhạc cổ điển Huế, từ ngày ban đầu nó ra đời cũng chính là sự liên kết chặt chẽ với vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông Hương.

2.7 Câu 7 trang 39 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Sông Hương ở trong dòng chảy của lịch sử đất nước. 

Lời giải chi tiết:

Sông Hương giống như một nhân chứng sống tồn tại mãi của lịch sử dân tộc, luôn luôn đồng hành cùng và dẫn dắt nhân dân ta ngay cả trong quá trình dựng nước và giữ nước của toàn dân tộc. 

2.8 Câu 8 trang 39 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Sông Hương ở trong cảm hứng của các nhà thơ. 

Lời giải chi tiết:

Chính bởi nhờ vẻ đẹp thơ mộng và sức hút không ngừng, Sông Hương từ lầu đã trở thành một nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, khi có dịp được ghé qua đây từ các nhà thơ Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan cho đến tâm hồn thơ mới đầy sự trong trẻo của Tố Hữu…

Sông Hương đã thôi thúc không ít những hồn thơ lưu dấu về một vẻ đẹp duyên dáng, yểu điệu nhưng đôi khi cũng hiện lên đầy mãnh liệt, mạnh mẽ, trở thành một điểm sáng rực rỡ trong văn học thơ ca Việt Nam.

3. Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông sách kết nối tri thức: Trả lời câu hỏi sau khi đọc văn bản

3.1 Câu 1 trang 40 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Những đặc tính tự nhiên nào của dòng sông Hương đã được tác giả chú ý làm nổi bật lên ở trong tác phẩm văn bản? Hãy chỉ ra các đoạn văn tiêu biểu khi nói về từng đặc tính riêng của con sông Hương. 

Lời giải chi tiết:

- Thượng nguồn: sông Hương được miêu tả và hiện lên với một vẻ đẹp đầy hoang dại, mãnh liệt và mạnh mẽ.

+ “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”

+ “như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”

+ “Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự được sức mạnh bản năng của người con gái của mình để khi ra khỏi rừng…”

- Ngoại vi thành phố, giữa các vùng đồng bằng châu thổ: sông Hương lại mang một dáng vẻ yểu điệu, quyến rũ của một người thiếu nữ trẻ đang nằm ngủ rất mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa to lớn, đối nghịch khi ở thượng nguồn.

+ “người con gái nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa”

+ “uốn mình theo những đường cong thật mềm”

+ dòng sông chuyển hướng liên tục tạo dáng vẻ thướt tha, yểu điệu của người thiếu nữ

+ “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”

- Trong lòng của thành phố: con sông Hương lại mang dáng vẻ nhẹ nhàng, lững lờ, từ từ trôi.

+ “như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”

+ “nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vầng trăng non.”

+ “con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi qua thành phố… như những vấn vương của một nỗi lòng.”

3.2 Câu 2 trang 40 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?, tác giả đã ngắm nhìn dòng sông Hương giống như một con người, trong nó có tồn tại tính cách, tình cảm riêng. Hãy tìm đọc ở trong đoạn trích về một số chi tiết đã thể hiện điều đó và phân tích thêm các nét độc đáo của nghệ thuật so sánh, nhân hóa đã được nhà văn sử dụng ở trong tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

- “sông Hương đã sống nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”

→ Sự hoang dã, mạnh mẽ của dòng sông Hương đã được tác giả tài tình so sánh với hình ảnh của cô gái Di-gan, một người con gái vô cùng xinh đẹp mà rất tự do, man dại. Cô ấy mang trong mình một vẻ đẹp trong sáng, hoàn toàn mang sự thuần khiết của tự nhiên. Sông cũng vậy, nó như một phần không thể tách rời trong vẻ đẹp thuần túy của thiên nhiên. Đây là một loại vẻ đẹp không bị tạp chất nào xen lẫn, mà chỉ mang trong mình cái đẹp một cách nguyên sơ và trong sáng.

- “người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại.”

→ Sông Hương trở thành một hình ảnh của một người thiếu nữ yên bình đang nằm ngủ, mang vẻ yểu điệu, thục nữ và dịu dàng. Cái vẻ đẹp hoang dã, đầy tự do ấy cách đây không lâu dường như đã tan biến, cảnh quan thơ mộng xung quanh cũng đã mài mòn đi vẻ đẹp nguyên thủy của dòng sông Hương để thay thế bằng một hình ảnh yên bình của một người thiếu nữ. 

- “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”

→ Đó là niềm hạnh phúc của người đã lâu rời xa quê hương, được gặp lại bạn bè và nhìn thấy cảnh vật quen thuộc, làm cho họ tràn đầy niềm vui và phấn khởi. Tuy nhiên, khi bước vào lòng thành phố, Sông Hương dường như mang một dáng vẻ tĩnh lặng, lững lờ và chảy qua mỗi góc phố, mỗi con đường nhỏ ở trong thành phố.

Thông qua cái nhìn trìu mến và tâm hồn lãng mạn của nhà văn, Sông Hương hiện lên như một hình ảnh của một người hoàn thiện, đầy những cảm xúc đa dạng, mới lạ và độc đáo, khiến người đọc không thể không bị cuốn hút và mê hoặc.

3.3 Câu 3 trang 41 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Trong cảm nhận của tác giả, sông Hương đã có sự gắn bó chặt chẽ như thế nào với thành phố Huế? Hãy phân tích một số những hình ảnh, chi tiết để làm rő mối quan hệ gắn kết đặc biệt này. 

Lời giải chi tiết:

Đầu tiên, không thể không nhắc đến hình ảnh dòng sông Hương đã bắt gặp thành phố Huế. Sông Hương dường như là một người con trở về nhà, chạm tới thành phố giống như đặt chân đến một bến đỗ quan trọng trong cuộc đời, nó vui mừng, hạnh phúc khi chào đón.

Hơn thế nữa, dòng sông Hương gắn liền với nhã nhạc cung đình Huế, một loại nghệ thuật âm nhạc nổi tiếng ở vùng đất Huế. Sự kết hợp này tạo nên một sự hòa quyện hoàn hảo, đưa người thưởng ngoạn sâu vào bầu không khí yên bình đặc biệt. Đây chính là vẻ đẹp mà Sông Hương mang trong âm nhạc cổ điển của vùng Huế.

Cuối cùng, đó là một mối liên kết bền chặt kéo dài hàng nghìn năm giữa Sông Hương và thành phố, như một sợi keo liền chặt, kết nối vui buồn, bền vững qua thăng trầm của thời gian.

3.4 Câu 4 trang 41 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Trong văn bản, có hai phương diện đáng chú ý; những thông tin khách quan về sông Hương và cảm xúc về con sông này. Theo bạn, nội dung nào nổi trội hơn? Cơ sở nào giúp bạn xác định như vậy? 

Lời giải chi tiết:

Từ góc nhìn của cá nhân, điểm nổi bật ở trong bài tùy bút chính là cảm xúc về dòng sông. Trong toàn bộ tác phẩm, ngoài việc trình bày thông tin một cách khách quan về sông như địa lý, hướng chảy, tác giả cũng thường xuyên đem so sánh, lý giải, và tạo ra những liên tưởng đầy mới mẻ về Sông Hương từ nguồn đến hạ lưu của sông.

Cách mà tác giả đã sử dụng đã ví von và nhân hóa đều hiện lên rất độc đáo và phù hợp với ngữ cảnh, tạo điểm nhấn cho tác phẩm. Thông qua những phương tiện này, người đọc cũng sẽ không chỉ nhìn thấy một dòng sông theo khía cạnh địa lý mà còn giống như là một sinh vật sống khi đang tương tác với con người - một vẻ đẹp ẩn chứa mà tác giả đã khám phá.

3.5 Câu 5 trang 41 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Kiến thức văn hóa tổng hợp đã được tác giả huy động như thế nào khi viết bài tùy bút về sông Hương? Theo bạn, mục đích của việc huy động kiến thức đó là gì?

Lời giải chi tiết:

Trong bài viết, tác giả đã rất khéo léo sử dụng kiến thức văn hóa tổng hợp đã được ông huy động một cách hết sức tài tình ở trong tác phẩm tùy bút. Tác giả đã không quá phô trương và sa đà trong việc nói nặng về những kiến thức về mặt khoa học, địa lý, ông vẫn luôn đan xen vào trong những câu văn và bày tỏ nên những cảm xúc, cùng những sự ví von đầy tinh tế và văn thơ của mình.

Bằng cách vận dụng được những kiến thức đầy linh hoạt như vậy, tác giả cũng muốn gửi gắm đến cho mọi người đọc một hình ảnh của dòng sông Hương hiện lên là hoàn toàn độc đáo, đẹp đẽ với vẻ đẹp có phần yểu điệu của thiếu nữ, kèm theo vẻ hoang dại của cô gái Di-gan… Đó cũng chính là phần hồn mạnh mẽ của dòng sông Hương và nó đã được tác giả khám phá ra, ghi nhận và truyền tải sống động đến với người đọc. 

3.6 Câu 6 trang 41 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Nêu cảm nhận của bạn về ý nghĩa nhan đề bài tùy bút. Theo bạn, cách đặt nhan đề của tác giả có gì đáng chú ý. 

Lời giải chi tiết:

Cách đặt tên cho nhan đề cho tác phẩm của tác giả cũng hết sức độc đáo, nó vừa là một câu hỏi tu từ, cũng vừa là một câu hỏi mang tính khẳng định.

- Nhan đề đó đã nhằm mục đích khơi dậy được những khát vọng, niềm tự hào của toàn bộ con người khi mong muốn mang cái đẹp để gây dựng, vun đắp cho văn hóa, lịch sử của vùng đất xứ Huế.

- Không những vậy, chính từ cách đặt nhan đề như vậy của tác giả cũng đã khơi dậy được sự tò mò, trí tưởng tượng mạnh mẽ ở trong lòng những người độc giả quan tâm. 

- Đó là cũng một cách dẫn dắt mang đầy sự độc đáo, sáng tạo và mới mẻ mà chính tác giả cũng muốn gửi gắm đến người đọc trước khi đưa họ đến với một dòng sông Hương mạnh mẽ nhưng cũng thơ mộng nơi xứ Huế. 

3.7 Câu 7 trang 41 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Phân tích một số yếu tố nghệ thuật mà bạn cho là đặc sắc trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Lời giải chi tiết:

- Nghệ thuật sử dụng hình ảnh, từ ngữ tinh tế: tác giả đã sử dụng một cách tinh tế về ngôn từ và hình ảnh, kết hợp một cách sáng tạo giữa yếu tố khoa học và văn học. Bằng việc sử dụng cả những câu văn miêu tả khách quan về dòng sông và những câu văn trữ tình, lãng mạn, tác giả đã tạo ra một cách diễn đạt đa dạng, thể hiện cảm xúc và tình yêu với dòng sông một cách sâu sắc.

- Sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ…: đã tạo nên hình ảnh sống động của dòng sông, biểu hiện lên được các trạng thái khác nhau và thay đổi một cách linh hoạt, đồng thời cũng thể hiện được rő sự tình cảm, tình yêu mến của tác giả đối với dòng sông, tạo nên một bức tranh sử thi đầy trữ tình, lãng mạn.

- Sức liên tưởng phong phú, vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực: tác giả không chỉ thể hiện được sự am hiểu sâu rộng về địa lý mà còn nhấn mạnh vào việc nhân cách hóa dòng sông Hương, nó giống như một người bạn, một đối tượng trữ tình của những người lính, của những nhà thơ qua thời kỳ lịch sử từ xưa đến nay.

4. Kết nối đọc - viết trang 41 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Đề bài: Hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích một hình ảnh độc đáo của sông Hương đã được tác giả sử dụng để làm nổi bật nên những nét riêng của con sông Hương. 

Lời giải chi tiết:

Trong bản văn, hình ảnh ấn tượng nhất là so sánh dòng sông với cô gái Di-gan, một phác họa rất sáng tạo và đáng nhớ. Ở nguồn của sông, nơi nước chảy mạnh mẽ và cuồn cuộn, đó là thượng nguồn của dòng sông Hương, đây là nơi mà nó bắt đầu, và chính tại nơi này, nó đã mang theo một phần hoang dã giống như con thú nhưng chưa được thuần phục, hoàn toàn tự nhiên và mạnh mẽ. Tuy nhiên, qua góc nhìn đầy lãng mạn của tác giả, dòng sông không giống như một con thú hoang, mà thay vào đó, nó dường như lại rất giống hình ảnh của một cô gái Di-gan, một hình tượng luôn được mô tả là chứa đầy phóng khoáng, tự do và man dại.

Thật vậy, đó cũng chính là vẻ đẹp nguồn gốc của cuộc sống, tại nơi nó bắt nguồn và nó cũng chưa bị giới hạn bởi bất kỳ thứ ràng buộc nào. Nó vẫn mang trong mình mang vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, chứa đầy sự man dại và hoang dã trong tự nhiên, đó là vẻ đẹp của sự tạo hóa, của một thực thể có giá trị vốn có. Sự hoang dã của nó đã được biến đổi thành một vẻ đẹp đầy quyến rũ. Điều này có thể được xem là một thành công lớn của tác giả khi ông đã có thể so sánh sông Hương với vẻ đẹp của con người.

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết bài soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông sách kết nối tri thức lớp 11 tập 2. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-ai-da-dat-ten-cho-dong-song-sach-ket-noi-tri-thuc-11-tap-2-2415.html

 

 

Tovább

Soan bai thuc hanh tieng viet bien phap tu tu

Biện pháp tu từ là biện pháp nghệ thuật hay được sử dụng trong các tác phẩm văn thơ nổi tiếng. Hiểu được chúng sẽ giúp các em có thể vận dụng vào các bài phân tích làm bài văn trở nên hay và sinh động hơn. Bởi vậy, cùng VUIHOC tham khảo Soạn bài thực hành tiếng Việt: Biện pháp tu từ lặp cấu trúc, biện pháp tu từ đối sách kết nối tri thức 11 nhé!

 

Soạn bài thực hành tiếng Việt: Biện pháp tu từ lặp cấu trúc, biện pháp tu từ đối 

1. Câu 1 trang 20 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ lặp cấu trúc có trong những đoạn thơ dưới đây (trích tác phẩm Truyện Kiều):

Phương pháp giải:

Dựa vào phần lý thuyết để có thể trả lời câu hỏi. 

Lời giải chi tiết:

a. Biện pháp tu từ lặp cấu trúc là “buồn trông…”

→ Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh về cảm xúc chán chường, mong ngóng và chờ đợi của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích. Nàng luôn mong ngóng có ngày được thoát ra khỏi nơi đây nhưng không biết bao giờ mới có thể ra được bởi vậy cứ buồn rầu mà nhìn cảnh vật. Ngoài ra, điệp ngữ còn có tác dụng giúp tạo nhịp điệu cho câu thơ, tác động mạnh đến cảm xúc của người đọc.

 b. Biện pháp tu từ là lặp từ “khi”, “sao”, “mình”

→ Tác giả muốn nhấn mạnh về sự chán chường và bẽ bàng trước hoàn cảnh của chính mình mà nhân vật trữ tình thể hiện. Cuộc đời của nàng vốn đã rất bất hạnh, giờ đây nhìn lại nàng lại thấy mình thực sự thảm hại, như ngọc nát đá tan.

 c. Biện pháp tu từ lặp cấu trúc là “đã cho… đã đày…”

→ Qua biện pháp lặp, tác giả muốn nhấn mạnh về sự bạc mệnh của những người tài hoa ở trong xã hội cũ. Tạo hóa đã ban tặng cho họ tài năng hơn người và cũng khiến cho họ khổ hơn người, tài năng và cuộc đời của họ dường như đánh đố nhau làm cho người đọc nghe không khỏi xót xa cho số phận vô cùng bất hạnh của họ. 

2. Câu 2 trang 21 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức 

Xác định và phân tích về tác dụng của biện pháp tu từ đối ở trong những đoạn thơ dưới đây (trích trong tác phẩm Truyện Kiều).

Phương pháp giải:

Đọc kỹ phần lý thuyết về biện pháp tu từ đối để có thể trả lời câu hỏi này. 

Lời giải chi tiết:

 a. Biện pháp tu từ: đối trong một cặp câu đó là “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”, “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê”, “Khách đà lên ngựa người còn ghé theo”.

→ Việc sử dụng những cặp đối trong cùng một câu như thế giúp tác giả dễ dàng tái hiện lại cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Kim Kiều ở trong Truyện Kiều. Đồng thời, nó cũng giúp làm nổi bật tình cảm của hai người đối với nhau, dù cả hai đều mến mộ nhau nhưng đều tỏ ra rất e ngại và thẹn thùng.

 b. Biện pháp tu từ đó là: đối vế câu “Một mình nương ngọn đèn khuya/ Áo đầm giọt lệ tóc se mái sầu”, “Phận dầu dầu vậy cũng dầu/ Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!”…

→ Nhấn mạnh về sự cô đơn và lẻ loi của nhân vật trữ tình ở trong đêm. Dường như nàng đang bầu bạn với ngọn đèn khuya, cảm thấy cô đơn, buồn bã và mong chờ vào một điều gì đó, rồi lại thấy tự thương cho chính bản thân mình.

 c. Biện pháp tu từ đó là đối trong một cặp câu “Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm đường”

→ Việc sử dụng biện pháp tu từ đối là để nhấn mạnh sự cô đơn của nhân vật trữ tình chỉ có trăng để làm bạn và làm tri kỷ. Đồng thời, biện pháp đối như thế giúp cho lời thơ trở nên cân xứng và câu văn thêm phần hài hòa và thu hút người đọc hơn. 

 

Hy vọng sau khi tham khảo Soạn bài thực hành tiếng Việt: Biện pháp tu từ lặp cấu trúc, biện pháp tu từ đối, các em có thể nắm rő chức năng và cách dùng của các biện pháp tu từ này. Từ đó tự áp dụng vào những bài văn hoặc bài phân tích của mình sao cho hiệu quả. Ngoài ra, để học thêm những bài soạn khác thuộc chương trình ngữ văn 11 hoặc kể cả những môn học khác, các em nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn để có thể đăng ký khoá học của VUIHOC và tiếp thu kiến thức cùng các thầy cô ngay nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-thuc-hanh-tieng-viet-bien-phap-tu-tu-lap-cau-truc-bien-phap-tu-tu-doi-sach-ket-noi-tri-thuc-11-2374.html

 

 

Tovább

Soan bai doc tieu thanh ki

Bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” thể hiện cảm xúc của tác giả Nguyễn Du về số phận bất hạnh của những người phụ nữ sở hữu tài văn chương trong xã hội phong kiến. Các em sẽ được tìm hiểu trước nghệ thuật và nội dung thông qua việc soạn những câu hỏi trong bài Đọc Tiểu Thanh kí trong chương trình Ngữ Văn 11. Cùng tham khảo với VUIHOC ngay nhé!

1. Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí sách Cánh diều

1.1 Trả lời câu hỏi phần đọc hiểu

Câu 1:  “Son phấn”, “văn chương” là để nói về điều gì ở nhân vật Tiểu Thanh?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ chú thích để nắm được nghĩa.

Lời giải chi tiết:

"Son phấn", "văn chương" có ý nghĩa nói Tiểu Thanh là một cô gái vô cùng xinh đẹp, có tài hoa nhưng vô cùng bạc mệnh.

Câu 2: Chú ý nghệ thuật đối ở hai câu thực và hai câu luận.

Phương pháp giải:

Đọc kỹ 4 câu thơ giữa và xác định nghệ thuật đối. 

Lời giải chi tiết:

“Son phấn” với “văn chương” 

“vẫn hận” với “còn vương”

“Nỗi hờn” với “cái án”

→ Việc sử dụng phép đối ở trong những câu thơ thực và luận thể hiện được cái tài và cái sắc đi kèm theo số phận bi thảm và đau khổ. 

1.2 Trả lời câu hỏi cuối bài 

Câu 1 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều  

Ngoài kết cấu đề, thực, luận, kết trong thơ Đường luật, bài Đọc Tiểu Thanh kí còn có thể phân chia theo kết cấu gồm hai phần (bốn câu thơ trên với bốn câu thơ dưới) được hay không? Tại sao?

Phương pháp giải:

Đọc lại toàn bộ bài sau đó xem xét về nội dung.

Lời giải chi tiết:

- Bài Đọc Tiểu Thanh kí có thể được phân chia theo kết cấu gồm hai phần (bốn câu thơ trên với bốn câu thơ dưới) được. Do nội dung giữa những câu đề và câu thực vô cùng gần nhau, nội dung của câu luận và câu kết cũng gần nhau như vậy.

+ 4 câu đầu: Thể hiện nỗi xót thương về phận bi thương và uất hận của nhân vật Tiểu Thanh.

+ 4 câu sau: Thể hiện niềm suy tư cùng mối đồng cảm với nhân vật Tiểu Thanh và với chính bản thân mình của Nguyễn Du.

Câu 2 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều  

Qua hai câu thơ: “Son phấn có thần chôn vẫn hận,/Văn chương không mệnh đốt còn vương.” em hiểu như thế nào về số phận Tiểu Thanh cùng với tình cảm, thái độ của tác giả?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ phần chú thích sau đó xem phần dịch nghĩa để nắm được tình cảm và thái độ.

Lời giải chi tiết:

- "Son phấn": Là đồ vật dùng để trang điểm của phụ nữ, tượng trưng cho sắc đẹp và vẻ đẹp của người phụ nữ. Ở đây được hiểu theo nghĩa Tiểu Thanh rất xinh đẹp.

- "Văn chương": Là biểu tượng của tài năng. 

→ Tiểu Thanh là một người con gái vừa xinh đẹp lại tài hoa.

- "hận, vương": Nhằm diễn đạt cảm xúc.

- “Chôn”, “đốt”: động từ cụ thể hóa lên sự ghen ghét và sự vùi dập rất phũ phàng của người vợ cả đối với nhân vật Tiểu Thanh.

→ Tiểu Thanh là một người con gái vừa xinh đẹp lại tài hoa nhưng lại bị chôn vùi bằng chính những điều như thế, bị hại bởi sự ghen tuông của người vợ cả.

→ Gợi lại cuộc đời và số phận bi thương của Tiểu Thanh, ca ngợi, khẳng định tài sắc của Tiểu Thanh đồng thời xót xa cho số phận bi thảm của nàng - cái nhìn nhân đạo mới mẻ, tiến bộ.

Câu 3 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Vì sao nhà thơ lại tự nhận mình là người cùng hội với người “phong lưu” thanh lịch và tài hoa nhưng mang một nỗi oan lạ lùng? Qua đó, em hiểu được gì về Nguyễn Du?

Phương pháp giải:

Xem lại toàn bộ cuộc đời của Nguyễn Du để biết được nỗi lòng.

Lời giải chi tiết:

Tiểu Thanh nàng vừa có tài lại vừa có sắc nhưng mệnh bạc, bị đày đọa đến chết trong tủi cực. Nguyễn Du cũng như thế, ông là một người vô cùng tài hoa nhưng phải sống trong một thời kỳ loạn lạc, cuộc đời ông chỉ toàn những thăng trầm và biến cố. Nguyễn Du là một người có trái tim nhân đạo, mỗi tác phẩm của ông đều nêu lên một hiện thực xã hội. Trái tim nhân đạo của đại thi hào đã được thể hiện ở lòng thương người cùng với niềm tự thương. Nguyễn Du hướng tới những số phận đau khổ và bất hạnh với niềm cảm thông sâu sắc. Đó cũng chính là lý do nhà thơ tự coi mình là người cùng hội với người “phong lưu” thanh lịch và tài hoa nhưng lại mang một nỗi oan lạ lùng.  

Câu 4 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Phân tích vai trò của nghệ thuật đối của bài thơ.

Phương pháp giải:

Xác định phép đối sau đó phân tích vai trò về nội dung và nghệ thuật.

Lời giải chi tiết:

- Trong tác phẩm Đọc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du đã sử dụng vô cùng tài tình phép đối cùng khả năng thống nhất các hình ảnh đối lập trong hình ảnh và ngôn ngữ:

+ Cảnh đẹp >< gò hoang 

→ Đối lập giữa quá khứ với hiện tại nhằm nhấn mạnh về sự hoang tàn của cảnh vật ở đây, vốn từng vô cùng xinh đẹp nhưng giờ lại héo úa và hoang tàn. Qua đó thể hiện được sự xót xa và tiếc nuối của tác giả đối với những số phận éo le như nàng Tiểu Thanh. 

Câu 5 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều  

Tác giả đã gửi gắm tâm sự gì thông qua hai câu thơ kết?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ hai câu kết và chú ý về tâm sự của tác giả.

Lời giải chi tiết:

Hai câu thơ kết tạo ra một câu hỏi. Từ thương người, Nguyễn Du đã chuyển mạch tới thương mình. Câu hỏi hướng tới những điệu hồn tri âm. Không hỏi về quá khứ, cũng không hỏi hiện tại do quá khứ và hiện tại đều vô cùng bế tắc. Câu hỏi hướng tới tương lai. Nguyễn Du cũng không hỏi ông trời, ông chỉ hỏi người vì còn mong muốn ở đời có thể tìm thấy được những tri âm. 

 

Câu 6 trang 48 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Hãy viết một đoạn văn ngắn (dài khoảng 10 – 12 dòng) nói về suy nghĩ của em về tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Du thông qua bài Đọc Tiểu Thanh kí.

Phương pháp giải:

Đọc lại toàn bộ bài thơ sau đó đưa ra những cảm nhận của bản thân về tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Du.

Lời giải chi tiết:

Bài thơ Đọc Tiểu Thanh Kí đã được đại thi hào Nguyễn Du viết vào một chuyến thăm ngôi mộ của nhân vật Tiểu Thanh. Tiểu Thanh là một người con gái có tài sắc vẹn toàn, thế nhưng cuộc đời lại vô cùng bi thảm, nàng chết trong nỗi cô đơn khi mới bước qua tuổi 18. Nàng vốn rất yêu thích thơ ca, trong những ngày cuối đời của mình, nàng đã viết rất nhiều bài thơ nhưng không may lại bị người vợ cả đem đốt hết. Để đến bây giờ, Nguyễn Du khi đến thăm mộ nàng vẫn còn chất chứa đâu đó nỗi oán hận và xót thương. Rồi ông cũng xót thương cho chính số phận của mình bởi ông cũng là người có tài và “phong lưu” như nhân vật Tiểu Thanh mà cuộc đời lại gặp phải quá nhiều biến cố. Thông qua bài thơ, tác giả muốn thể hiện giá trị nhân đạo rất sâu sắc về khát vọng được sống, được người đời kính trọng và cảm thông trước những số phận nhỏ bé và bất hạnh nhất là những người phụ nữ tuy tài hoa nhưng lại bạc mệnh như Tiểu Thanh hay Thúy Kiều. Từ đó gợi ra vấn đề về quyền được sống và khao khát về sự yêu thương, tôn trọng với những người tài hoa.

 

2. Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí sách Kết nối tri thức

2.1 Trả lời câu hỏi trước khi đọc văn bản

Câu 1: Kể tên một số tác phẩm trong kho tàng văn chương Việt Nam viết về những thân phận bất hạnh của người phụ nữ mà em đã biết.

Lời giải chi tiết:

- Chuyện người con gái Nam Xương

- Tự tình

- Bánh trôi nước

- Chinh phụ ngâm,.... 

Câu 2: Qua nhân vật Thúy Kiều, hãy chia sẻ cảm nhận của em về số phận của những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến.

Lời giải chi tiết:

Thật hiếm có người phụ nữ nào trong nền văn học sở hữu một số phận "đoạn trường" như nhân vật Vương Thuý Kiều trong tác phẩm “Truyện Kiều”. Ngay khi mới đọc phần mở đầu, nhận định của tác giả là "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo về số phận đau đớn ấy. Thuý Kiều sở hữu một vẻ đẹp vô cùng đằm thắm, mảnh mai là thế, lại có tài sắc vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng nhẽ ra nàng phải được sống một cuộc sống hạnh phúc và êm ấm, vậy mà do một biến cố ập đến với gia đình nên đã bị bán với cái giá hơn bốn trăm lạng vàng. Bất hạnh này đã mở đầu cho một chuỗi bất hạnh khác mãi cho đến khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn thì mới chấm dứt. Dẫu biết rằng kết chuyện Thúy Kiều vẫn được về sum họp lại với gia đình nhưng cả một kiếp người sống trôi nỗi truân chuyên đó đã vùi dập lên một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã phải khóc cho bao nhiêu lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống chẳng bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục đã rày xé thân mình của nhân vật Thuý Kiều. Số phận bi thảm ấy của người con gái đã khiến cho muôn đời phải thốt lên rằng "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".

Phải chăng vì vậy mà người xưa đã truyền tai nhau câu nói "Hồng nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo vô cùng khắc nghiệt và lạc hậu cũng đã lùi về dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã có được quyền bình đẳng, nhất là quyền được tự do trong hôn nhân và quyền được quyết định cho số phận của mình. Những hành vi xúc phạm về nhân phẩm của người phụ nữ đều phải bị trừng trị thật nghiêm khắc. Số phận của Thuý Kiều là một tấn những bi kịch về tình yêu, mối tình đầu bị tan vỡ. Nàng phải bán thân mình chuộc cha, đã phải thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Hai lần nàng tự tử và hai lần nàng đi tu, hai lần phải ở lầu xanh, hai lần làm con ở mà quyền sống và quyền hạnh phúc đều bị cướp đoạt nhiều lần. Tấm lòng vô cùng trong trắng và trinh bạch của người con gái tài sắc vẹn toàn ấy được ví như bèo dạt mây trôi. Suốt mười lăm năm phải chịu cảnh đoạn trường lưu lạc, nàng Kiều đã phải gặp biết bao nhiêu cay đắng và tủi nhục dày vò lên chính bản thân. Nỗi đau đớn nhất của nàng chính là nỗi đau khi mà phẩm giá của con người đã bị chà đạp và lòng tự trọng thì bị sỉ nhục:

Thân lươn bao quản lấm đầu

Tấm lòng trinh bạch lần sau xin chừa.

Tựa cánh bèo trôi trên ngọn sóng, như cánh buồm đang trôi dạt trên biển khơi, cuộc đời của Kiều cũng trôi dạt và lênh đênh đến tận cùng của bến bờ khốn khổ. Giữa trời cao bể rộng không một chỗ dung thân cho người. Dù con người đó chỉ có một nguyện vọng hết sức đơn giản đó là được sống cuộc sống bình yên bên cạnh cha mẹ và được chung thủy với người mình yêu. Kiều là người phụ nữ được nhận xét là tài sắc vẹn toàn. Trong nhân gian thì chỉ có Kiều là nhất, còn về tài năng thì ngoài nàng ra thì may ra còn có người thứ hai chính là Đạm Tiên. Ngòi bút của nhà thơ khi viết về Kiều có lẽ đã đạt tới độ cực đỉnh, không có một từ ngữ nào có thể miêu tả được hết tài sắc của Kiều nữa.

Bên cạnh sự tài giỏi và sắc đẹp, Nguyễn Du còn ca ngợi Thuý Kiều là một người thấu tình đạt nghĩa. Kiều là một người phụ nữ vô cùng thủy chung, bị bán vào lầu xanh nhưng nàng nguyện lấy cái chết ra để bảo vệ cho danh tiết cho mình. Nàng là một người con hết sức hiếu thảo, không hề nghĩ tới hạnh phúc riêng của mình, nàng sẵn sàng “bán mình chuộc cha”, giúp cho gia đình thoát khỏi cảnh hoạn nạn. Kiều đã làm tròn được chữ hiếu, báo đáp được công ơn sinh thành dưỡng dục với cha mẹ.

Trong suốt khoảng thời gian lưu lạc dài dằng dẵng, Kiều chẳng bao giờ cam chịu, chẳng bao giờ chịu khuất phục và trong ý thức, nàng là “con người chống đối” và cũng là “kẻ nổi loạn”. Nàng vượt ra chốn lầu xanh đầy ô nhục của Tú Bà và Bạc Bà, trốn khỏi cái chốn “hang hùm nọc rắn” của giới quý tộc họ Hoạn, rồi tới được với người anh hùng Từ Hải. Và cuối cùng nàng cũng đền ơn, trả oán một cách minh bạch, công khai. Kiều tượng trưng cho những người phụ nữ với khát vọng được tự do, tin vào công lý và chính nghĩa.

Bằng chính tấm lòng nhân đạo rất sâu sắc và cao cả, Nguyễn Du đã miêu tả vô cùng chân thực và đầy xót xa về số phận của người phụ nữ sống trong xã hội cũ. Viết về những người đàn bà với sự bất hạnh, đẹp người đẹp nết ấy, các nhà văn, nhà thơ đã viết bằng sự ca ngợi và nâng niu vô bờ bến. Chúng ta có thể cảm nhận được điều ấy và càng thương xót hơn cho thân phận khốn khổ của họ.

2.2 Trả lời câu hỏi trong khi đọc văn bản

Câu 1: Theo dői về mạch cảm xúc của tác giả trong bài thơ.     

Lời giải chi tiết:

Mạch cảm xúc của tác giả đi từ những điều đẹp đến buồn, từ hiện tại tới quá khứ rồi tới sự thương tiếc cho thân phận của chính tác giả. 

Câu 2: Chú ý về sự đồng cảm với những bi kịch của người phụ nữ và cảm thán về thân phận của chính tác giả.

Lời giải chi tiết:

 Sự đồng cảm ở đây chính là sự đồng cảm với những người tài hoa nhưng lại bạc mệnh và cũng chính là lời cảm thán về sự ra đi của chính mình với sự lãng quên của người đời. 

2.3 Trả lời câu hỏi sau khi đọc văn bản

Câu 1 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Theo em, nội dung ở câu 1 và câu 2 của bài thơ có mối quan hệ logic như thế nào với nhau?

Lời giải chi tiết:

Hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ với hiện tại: Tây Hồ hoa uyển (chính là vườn hoa bên Tây Hồ) – thành khư (là gò hoang).

→ Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh về sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh thêm về sự tương xứng của cuộc gặp gỡ đó. Một trạng thái vô cùng cô đơn gặp gỡ một kiếp cô đơn bất hạnh

⇒ Hai câu thơ diễn tả được tâm trạng của tác giả Nguyễn Du trước khung cảnh hoang tàn, đó cũng chính là nỗi niềm vô cùng xót xa và tiếc nuối cho số phận của nhân vật Tiểu Thanh.

Câu 2 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Chỉ ra và nhận xét về mối quan hệ về ý ở hai câu thực

Lời giải chi tiết:

→ Triết lí về số phận của con người trong thời kì xã hội phong kiến: tài hoa nhưng bạc mệnh, hồng nhan đa truân, tài mệnh tương đố… cái tài và cái sắc thường bị vùi dập.

→ Hai câu thơ cực tả về nỗi đau trong số phận vô cùng bất hạnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời cũng chính là tấm lòng trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp, qua đó đề cao tài năng trí tuệ của nhân vật Tiểu Thanh; đồng thời cũng mang sức tố cáo mạnh mẽ.

Câu 3 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Phân tích về những cảm xúc và suy ngẫm của tác giả được thể hiện thông qua hai câu luận.

Lời giải chi tiết:

- “Cổ kim hận sự”: mối hận thời xưa và nay, mối hận ngàn đời hay mối hận truyền kiếp. Đó chính là mối hận của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh.

- Thiên nan vấn: khó có thể hỏi trời.

→ Câu thơ mang sự khái quát rất cao. Nỗi hận ấy không chỉ là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của tác giả Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa sống trong xã hội phong kiến. Câu thơ thể hiện lên sự đau đớn phẫn uất cao độ trước một thực tế hết sức vô lý: người có sắc thì thật bất hạnh, nghệ sĩ có tài thì thường cô độc.

- Kì oan: nỗi oan ức lạ lùng

- Ngã: ta (từ dùng để chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại mà tác giả Nguyễn Du sống). Nguyễn Du không muốn đứng bên ngoài mà muốn nhìn vào nữa và giờ đây ông chủ động đi tìm sự tri âm cùng nàng, với những người tài hoa nhưng lại bạc mệnh.

⇒ Nguyễn Du không chỉ cảm thấy thương xót cho số phận nàng Tiểu Thanh mà còn liên hệ tới nỗi hận của muôn người và muôn đời khác trong đó có chính nhà thơ. Qua đó, thể hiện lên sự cảm thông vô cùng sâu sâu sắc tới độ “tri âm tri kỉ”

Câu 4 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Chia sẻ về suy nghĩ của em về tâm sự của tác giả Nguyễn Du ở hai câu kết.

Lời giải chi tiết:

Thể hiện lên nỗi cô đơn của người nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (tác giả Xuân Diệu). Ông thấy mình vô cùng lạc lőng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người có thể xem là tri kỉ ở quá khứ nhưng vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng khác xuất hiện trong tương lai.

Câu 5 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Qua bài thơ, tác giả đã khái quát lên bi kịch chung mà những người tài hoa và phong nhã trong xã hội phong kiến phải chịu như thế nào?

Lời giải chi tiết:

Qua bài thơ, tác giả đã có thể khái quát chung về số phận những người tài hoa sống trong xã hội phong kiến, dường như tạo hóa đã ghen tị với những tài hoa mà họ có nên phán cho họ một cuộc đời đầy những bất hạnh và khổ đau, đó chính là nỗi bất công và sự đau khổ truyền kiếp của những con người tài hoa sống trong xã hội ấy. 

Câu 6 trang 19 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức

Hãy tìm đọc sau đó giới thiệu một số tác phẩm viết về chủ đề người phụ nữ của Nguyễn Du. 

Lời giải chi tiết:     

Bài thơ Sở kiến hành của tác giả Nguyễn Du là một trong những tác phẩm nói lên nỗi bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, đó là hình ảnh về một người mẹ nghèo đói và khổ cực, phải đi ăn xin để nuôi nấng những đứa con của mình. Qua đó, ta không chỉ thấy được những bi kịch của người mẹ mà còn cảm nhận được nỗi lòng của người mẹ ấy, luôn luôn hết lòng với con cái của mình. 

 

2.4 Kết nối  đọc - viết 

Viết đoạn văn (dài khoảng 150 chữ) so sánh nội dung giữa hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký dưới đây:

Đau đớn thay phận đàn bà 

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. 

Lời giải chi tiết:

Đau đớn thay phận đàn bà 

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. 

Hai câu thơ này đã được tác giả Nguyễn Du viết - chính là lời cảm thán của Kiều khi đứng trước ngôi mộ lạnh lẽo của Đạm Tiên - một kỹ nữ. Hai câu thơ chính là một lời than thở của nhân vật Kiều hay cũng chính là của tác giả Nguyễn Du trước nỗi đau mà những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng. Lời thơ như một tiếng thở dài đầy đau xót của chính tác giả, Nguyễn Du cũng đã có những năm tháng phải phiêu bạt và chịu đựng cảnh đói, nghèo khổ, có lẽ vì vậy mà ông rất hiểu về những số phận nghèo khó và cả về hoàn cảnh đau khổ của những người phụ nữ sống thời kỳ ấy. Đó là lời thương cảm của tác giả Nguyễn Du, là tấm lòng vô cùng nhân đạo và đầy cao cả của ông đối với những người phụ nữ Việt Nam xưa - những thân phận vốn "thấp cổ bé họng" sống lầm lũi trong xã hội phong kiến đương thời.

Qua hai câu luận trong Độc Tiểu Thanh ký, nhà thơ như muốn an ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với chính mình rằng xưa nay những người tài hoa mà bạc mệnh cũng có rất nhiều, việc đó chỉ có trời mới có thể hiểu. Nhưng dù trời có hiểu đi chăng nữa thì vẫn chẳng thể nào can thiệp được với sự ganh ghét của người vợ cả hay của người đời về lối sống hết sức phong lưu đài các và nhàn nhã của người có tài. Nguyễn Du không chỉ thương xót cho số phận nàng Tiểu Thanh mà còn bàn tới nỗi hận thù của muôn người và muôn đời trong đó có chính bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện được sự cảm thông vô cùng sâu sắc tới độ “tri âm tri kỉ”.

>> Mời bạn xem thêm: Soạn Ngữ văn 11

3. Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí sách Chân trời sáng tạo

3.1 Trả lời câu hỏi trước khi đọc bài 

Bạn hiểu như thế nào về “tri âm” và có biết câu thành ngữ, tục ngữ hay tác phẩm văn học nào nhắc về chuyện “tri âm”? Hãy chia sẻ trên lớp.

Lời giải chi tiết:

"Tri âm" có nghĩa là độ chân thật hay độ sâu sắc trong mối quan hệ tình cảm. Tri âm được xem là một giá trị văn hóa của người dân Việt Nam, cho thấy sự sẵn sàng chia sẻ và đồng cảm, tôn trọng tới người khác.

Có rất nhiều tác phẩm văn học và tục ngữ Việt Nam nhắc tới chuyện "tri âm". Ví dụ như trong tác phẩm truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du, "Yên thơ tri âm" trong thơ của tác giả Nguyễn Bính, hay câu tục ngữ "Đồng thanh tâm để trăm sự đều thành",... 

Nói chung, ở Việt Nam, tri âm chính là một giá trị văn hóa vô cùng quan trọng và được trân trọng.

3.2 Trả lời câu hỏi trong khi đọc bài

Câu 1: Đối chiếu giữa bản phiên âm với bản dịch nghĩa theo mỗi dòng, mỗi cặp câu để hiểu về nghĩa và nội dung của bài thơ.

Lời giải chi tiết:

Bản dịch nghĩa dịch rất sát với bản phiên âm, thể hiện được trọn vẹn về cả nội dung và ý nghĩa của bản phiên âm. Nội dung của bài thơ: nói về cuộc đời của một người phụ nữ có tên là Tiểu Thanh, người này đã phải trải qua vô vàn sóng gió trong cuộc đời. Qua đó thể hiện được nỗi niềm cảm xúc và suy tư của tác giả về số phận vô cùng bất hạnh của người phụ nữ xã hội phong kiến. Đồng thời thông qua tác phẩm, chúng ta có thể cảm nhận hết sức sâu sắc và trân trọng những tấm lòng nhân đạo và xót thương cho thân phận của người phụ nữ của tác giả.

Câu 2: Hai dòng thơ cuối với sáu dòng thơ đầu có mối liên hệ như thế nào?

Lời giải chi tiết:

Mối liên hệ giữa hai dòng thơ cuối với sáu dòng thơ đầu đó là: tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hai dòng thơ cuối đó để kết thúc cho bài thơ và tổng kết về ý nghĩa của tác phẩm. Sáu dòng thơ đầu được sử dụng nhằm miêu tả về cuộc đời của Tiểu Thanh, nhân vật chính trong câu truyện, cũng như tất cả thăng trầm và nỗi đau xuất hiện trong cuộc đời của cô. Hai dòng thơ cuối đưa ra một góc nhìn khác về cuộc sống và nhân sinh, và góp phần giúp cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn với việc truyền tải thông điệp của tác giả đến độc giả.

3.3 Trả lời câu hỏi sau khi đọc bài: 

Câu 1 trang 43 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Chủ thể trữ tình với tác giả của tác phẩm này có phải là một hay không? Căn cứ vào những chi tiết nào trong văn bản mà em xác định như vậy?

Lời giải chi tiết:

- Chủ thể trữ tình với tác giả của tác phẩm này không phải là một người.

- Tác giả đã sử dụng một giọng điệu hết sức trữ tình và cảm xúc để miêu tả về nhân vật Tiểu Thanh, nhưng đó không phải là cách thức để tác giả thể hiện bản thân. Tác giả Nguyễn Du cũng không dùng tên thật của mình trong tác phẩm này, mà thay bằng một biệt hiệu là "Thế Nhân". Đồng thời, Nguyễn Du cũng phân tích tính cách nhân vật, thay vì sử dụng chính lời kể trực tiếp để thể hiện quan điểm của bản thân.

Câu 2 trang 43 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Phân tích tính cảm và cảm xúc của chủ thể trữ tình đối với số phận bi đát của nàng Tiểu Thanh (chú ý về từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ… trong sự đối xứng giữa bản phiên âm với bản dịch nghĩa).

Lời giải chi tiết:

- Tình cảm và cảm xúc của chủ thể trữ tình đối với số phận bi đát của nàng Tiểu Thanh được thể hiện thông qua những từ ngữ, hình ảnh và biện pháp tu từ trong sự đối xứng giữa bản phiên âm với bản dịch nghĩa như sau: 

+ Với những hình ảnh đầy sự tươi đẹp về nhân vật Tiểu Thanh, chủ thể trữ tình đã sử dụng những từ ngữ như "hoàn mỹ", "tuyệt tác", "tuyệt vời", "mỹ nhân", "đẹp mắt" để có thể miêu tả được vẻ đẹp của Tiểu Thanh. Tuy nhiên, khi Tiểu Thanh phải đối mặt với số phận chất chứa vô vàn đau thương, cảm xúc của chủ thể trữ tình lại trở nên u buồn và đau đớn.

+ Cảm xúc của chủ thể trữ tình còn được thể hiện thông qua những hình ảnh tu từ như là "nước mắt tuôn rơi", "mây u ám", "gió lạnh xuyên thấu". Chủ thể trữ tình đã thể hiện được sự đau đớn và tuyệt vọng của nhân vật Tiểu Thanh trong hoàn cảnh khó khăn.

 

Câu 3 trang 43 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Hãy xác định mối liên hệ về nội dung giữa sáu dòng thơ đầu với hai dòng thơ cuối. Từ ấy, em hiểu như thế nào về tâm sự của tác giả Nguyễn Du với thời đại của ông?

Lời giải chi tiết:

- Mối liên hệ về mặt nội dung giữa sáu dòng thơ đầu với hai dòng thơ cuối: tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hai dòng thơ cuối đó để kết thúc cho bài thơ và tổng kết về ý nghĩa của tác phẩm. Sáu dòng thơ đầu được sử dụng nhằm miêu tả cuộc đời của Tiểu Thanh, nhân vật chính trong câu truyện, cũng như vô vàn thăng trầm và nỗi đau xuất hiện trong cuộc đời của cô. Hai dòng thơ cuối thể hiện một góc nhìn khác về cuộc sống và nhân sinh, và góp phần giúp cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn với việc truyền tải thông điệp của tác giả đến độc giả.

- Tâm sự của Nguyễn Du với thời đại của ông: Nguyễn Du cảm thấy vô cùng bơ vơ giữa dòng đời. Tâm sự của Nguyễn Du chất chứa đầy ắp những bi thương. Ông sống trong cuộc đời đầy phong ba cùng bao tâm sự uẩn khúc. Nguyễn Du khóc cho nàng Tiểu Thanh, đồng thời cũng trăn trở và khóc thương cho chính mình.

Câu 4 trang 43 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Xác định cảm hứng chủ đạo cùng với thông điệp mà tác giả muốn gửi tới độc giả thông qua bài thơ. Từ việc đọc hiểu bài thơ phía trên, em rút ra được những lưu ý gì khi đọc một tác phẩm chữ Hán của Nguyễn Du?

Lời giải chi tiết:

- Cảm hứng chủ đạo trong bài thơ: Từ sự đồng cảm và thương xót trước số phận của Nguyễn Du đối với số phận buồn đau của nhân vật Tiểu Thanh, tác giả thể hiện được những cảm xúc và suy tư của mình về số phận bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc và trân trọng những tấm lòng nhân đạo và yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Du. Đó là chủ nghĩa nhân đạo trải dài, xuyên suốt tác phẩm.

- Những lưu ý khi đọc một tác phẩm chữ Hán của tác giả Nguyễn Du: 

+ Tìm hiểu bối cảnh lịch sử - văn hóa tại thời điểm mà bài thơ được sáng tác → Từ đó người đọc có thể nắm được những cảm xúc và tư tưởng mà Nguyễn Du muốn gửi gắm trong nội dung bài thơ.

+ Đọc và hiểu về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của mỗi câu thơ. Đồng thời nắm rő được về ngôn ngữ và biểu tượng đã được sử dụng trong bài thơ

+ Tìm hiểu và đối chiếu với những bài thơ của tác giả khác cùng thời và sống trong cùng một nền văn hóa: Việc so sánh và đối chiếu sẽ giúp em hiểu rő thêm về phong cách và tư tưởng, tình cảm của tác giả Nguyễn Du và cũng giúp em hiểu rő hơn về nền văn hóa và nền văn minh của thời kỳ đó.

Câu 5 trang 43 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Bình luận ý kiến như sau: trong những nhân vật Tiểu Thanh (trong Độc “Tiểu Thanh kí”), Thúy Kiều (trong Truyện Kiều) đều có bóng dáng của Nguyễn Du.

Lời giải chi tiết:

Em đồng tình với ý kiến nêu trên: trong những nhân vật Tiểu Thanh (trong Độc “Tiểu Thanh kí”), Thúy Kiều (trong Truyện Kiều) đều có bóng dáng của Nguyễn Du.

- Trong "Truyện Kiều", Thúy Kiều đã được miêu tả với những đặc điểm, tư tưởng và phẩm chất tương đồng với tác giả Nguyễn Du. Thúy Kiều được xem là một nhân vật vô cùng thông minh, trí tuệ, tài năng với tâm hồn thì nhạy cảm, ước mơ cao cả và chất đầy tình yêu thương lẫn nỗi đau khổ. Những đặc điểm này cũng có thể thấy ở những tác phẩm thơ khác của tác giả Nguyễn Du.

- Tương tự, nhân vật Tiểu Thanh của tác phẩm Độc "Tiểu Thanh kí" cũng mang những nét đặc sắc của Nguyễn Du. Tiểu Thanh là một nhân vật vốn trầm lặng và đơn độc, yêu thích văn học với sự tinh tế trong sự cảm nhận về tình yêu và tình bạn. Những đặc điểm này cũng phản ánh lên tư tưởng, tâm hồn và suy nghĩ của tác giả Nguyễn Du trong nhiều tác phẩm thơ của ông.

 

 

Bài viết phía trên đã hướng dẫn bạn cách soạn bài độc tiểu thanh ký trong ba cuốn sách Cánh diều, Kết nối tri thức và Chân trời sáng tạo. Hy vọng sau khi tham khảo bài viết, các em sẽ nắm được tình trạng của xã hội phong kiến và cảm thông với người phụ nữ giỏi văn chương ở giai đoạn này. Các em đừng quên cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký những khoá học của VUIHOC để trải nghiệm học cùng các thầy cô ngay nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-doc-tieu-thanh-ki-ngu-van-11-sach-canh-dieu-ket-noi-tri-thuc-chan-troi-sang-tao-2284.html

 

 

Tovább

Soan bai trao duyen lop 11

Trao duyên là một đoạn trích trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Bằng ngôn ngữ đầy tính nghệ thuật, tác giả đã thể hiện đặc sắc diễn biến tâm trạng vô cùng bế tắc của Thúy Kiều vào đêm trao duyên. Cùng theo dői soạn bài trao duyên trong chương trình Ngữ Văn 11 của ba đầu sách Cánh diều, Kết nối tri thức và Chân trời sáng tạo dưới đây.

1. Soạn bài trao duyên - sách cánh diều 

1.1 Trả lời câu hỏi đọc hiểu

Câu 1: Chú ý về lời nói, hành động và lí lẽ của Thúy Kiều lúc thuyết phục Thúy Vân.

Phương pháp giải:

Đọc lại 14 câu thơ đầu sau đó tìm ra lời nói, hành động và lí lẽ của Thúy Kiều lúc thuyết phục Thúy Vân.

Lời giải chi tiết:

- Lời nói, hành động và lí lẽ của Thúy Kiều lúc thuyết phục Thuý Vân thay mình đi trả nghĩa bằng cách kết duyên với Kim Trọng:

+ Kể về mối tình của nàng với chàng Kim:

“đứt gánh tương tư”: tức mối tình đang dở dang, đứt quãng.

“mối tơ thừa”: mối tình duyên giữa Kim - Kiều; “chắp mối”: Thúy Vân sẽ là người phụ nữ nhận lại mối tình đang dang dở ấy.

“Quạt ước, chén thề”: Là một điển tích gợi tả hình ảnh hai người tặng nhau quạt nhằm tỏ ý trăm năm và uống rượu cùng nhau để thề nguyền một lòng chung thủy.

+ Những lí do khiến cho Kiều muốn trao duyên cho em: 

Kiều đã khơi ra tình cảnh ngang trái và khó xử của mình để Vân có thể thấu hiểu. Vân vẫn còn rất trẻ và còn cả một tương lai phía trước.

→ Kiều thuyết phục em bằng tất cả tình cảm ruột thịt.

Câu 2: Thúy Kiều đã để lại những kỉ vật gì của tình yêu?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ 14 câu thơ đầu, chú ý vào các chi tiết thể hiện kỉ vật tình yêu.

Lời giải chi tiết:

- Kiều đem kỉ vật của tình yêu để gửi gắm nơi em gái mình: 

+ Chiếc vành

+ Bức tờ mây

+ Phím đàn 

+ Mảnh hương nguyền.

Câu 3: Thúy Kiều đã nghĩ về điều gì khi chẳng may nàng “thác oan”?

Phương pháp giải:

Đọc tiếp 8 câu thơ tiếp theo, chú ý về suy nghĩ của Thúy Kiều

Lời giải chi tiết:

Thúy Kiều nghĩ đến tình yêu dành cho Kim Trọng, dẫu có “thác oan” thì vẫn giữ nguyên lòng thủy chung, tình yêu mãnh liệt và bất tử. Qua đó, ta thấy được tình cảm lý trí đan xen, sự giằng xé, đau đớn và nhớ thương Kim Trọng tới tột cùng của Kiều.

Câu 4: Thúy Kiều đã nói với ai? Về điều gì? Tâm trạng của Thuý Kiều lúc đó như thế nào?

Phương pháp giải:

Đọc 12 câu thơ cuối cùng, chú ý vào cách xưng hô của nhân vật Thúy Kiều, chi tiết thể hiện lên tâm trạng.

Lời giải chi tiết:

- Thúy Kiều nói với Kim Trọng về khát vọng trong tình yêu mãnh liệt với hiện thực quá phũ phàng. 

- Kiều ngất đi trong hình bóng của chàng Kim Trọng “Ôi Kim Lang…”.

- Kiều tự trách thân mình và đau đớn. 

→ Tâm trạng của Kiều giằng xé nhiều mâu thuẫn, đau đớn tới tột cùng.

1.2  Trả lời câu hỏi cuối bài 

Câu 1 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Đoạn trích Trao duyên được chia làm mấy phần? Hãy nêu lên nội dung chính của từng phần.

Phương pháp giải:

Đọc lại toàn bộ đoạn trích sau đó phân chia bố cục và nêu nội dung chính của mỗi phần

Lời giải chi tiết:

+ 12 câu đầu: Lời nhờ vả và thuyết phục trao duyên cho Thúy Vân của nhân vật Thúy Kiều.

+ 14 câu tiếp: Thúy Kiều đem trao kỉ vật và dặn dò em.

+ 8 câu cuối: Thúy Kiều đối mặt với thực tại và lời nhắn gửi tới Kim Trọng.

Câu 2 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Thuý Kiều đã có những lời nói, hành động và lí lẽ gì để thuyết phục Thuý Vân có thể thay mình đi trả nghĩa và kết duyên với Kim Trọng?

Phương pháp giải:

Đọc lại 14 câu đầu, chú ý vào những lời nói, hành động cũng như lí lẽ để thuyết phục.

Lời giải chi tiết:

Những lời nói, hành động cũng như lí lẽ của Thúy Kiều nhằm thuyết phục Thúy Vân thay mình đi trả nghĩa và kết duyên với Kim Trọng:

- Lời nhờ cậy của Thuý Kiều:

+ “Cậy”: một thanh trắc với âm điệu rất nặng nề, gợi sự quằn quại tới đau đớn, khó nói, còn mang ý nghĩa là trông mong và giúp đỡ, hi vọng tới tha thiết, sự gửi gắm đầy niềm tin.

+ Chịu: bắt buộc, nài ép và không thể từ chối.

→ Thúy Vân bị ép vào thế dù nàng không muốn nhưng cũng phải nhận tình yêu mà chị mình trao.

- Hành động nhờ cậy:

+ “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn rất trang trọng với người bề trên hoặc người mang ơn.

→ Sự thay ngôi đổi bậc, đi ngược với lễ giáo phong kiến nhưng vẫn chấp nhận được, bởi: Kiều coi Vân như một ân nhân của mình. Kiều rất trân trọng tình yêu đối với Kim Trọng. Cách nói đã thể hiện lên sự thông minh và khéo léo của Thúy Kiều.

- Lí lẽ của Thuý Kiều:

+ “Ngày xuân em hãy còn dài” gợi lên tình cảnh hết sức ngang trái, khó xử của mình để em gái thấu hiểu.

+ “Xót tình máu mủ thay lời nước non”: Vân vẫn còn rất trẻ, còn cả một tương lai phía trước.

+ “Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối”: nói đến cái chết đầy mãn nguyện.

→ Cách lập luận vô cùng chặt chẽ và thấu tình cho thấy Thúy Kiều là một người sắc sảo tinh tế, là người có đức hi sinh, một người con rất hiếu thảo và trọng tình nghĩa. 

Câu 3 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Vì sao sau khi nhờ cậy Thúy Vân thay mình đi kết duyên với Kim Trọng, bi kịch của Thuý Kiều lại càng thêm căng thẳng?

Phương pháp giải:

Chú ý vào nội dung của tác phẩm Truyện Kiều.

Lời giải chi tiết:

Sau khi nhờ cậy Thuý Vân thay mình đi kết duyên với Kim Trọng thì bi kịch của Thuý Kiều lại càng tăng vì nàng không được ở bên người mình yêu nữa mà phải kết hôn với tên Mã Giám Sinh, hắn là tên lừa đảo. Tương lai của nàng không biết sẽ phải lưu lạc đến đâu, bao giờ mới có thể tái ngộ cùng người thân.

 

Câu 4 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Việc Thuý Kiều để lại những kỉ vật của tình yêu nói lên ý nghĩa gì?

Phương pháp giải:

Chú ý vào những chi tiết thể hiện lên cảm xúc và lời nói của Thúy Kiều.

Lời giải chi tiết:

Những kỷ vật ấy đại diện cho tình yêu giữa nàng và Kim Trọng. Việc Kiều đưa cho Thúy Vân những kỷ vật chính là để đem tình yêu của mình trao đi. Nàng mong những kỉ vật tình yêu ấy có thể giữ thành của cả ba người, tuy trao kỉ vật cho Vân nhưng nàng chẳng thể trao được tình yêu với chàng Kim, tình yêu càng mãnh liệt và sâu sắc bao nhiêu thì càng thấy bi kịch đau khổ bấy nhiêu.

Câu 5 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Đoạn Trao duyên là lời của nhân vật Thuý Kiều nói với những ai? Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều thông qua sự chuyển đổi lời thoại.

Phương pháp giải:

Chú ý vào những sự chuyển đổi lời thoại để nhận ra nhân vật Thúy Kiều đang nói với những ai.

Lời giải chi tiết:

- Kiều đối thoại với Vân, với chính bản thân mình và với chàng Kim Trọng.

+ Với Vân: Kiều vô cùng biết ơn, yên tâm và thanh thản vì mâu thuẫn đã được giải quyết tạm thời.

+ Với chính mình: tâm trạng giằng xé chất chứa mâu thuẫn, đau đớn tới tột cùng.

+ Với Kim Trọng: Khát vọng về tình yêu mãnh liệt trong hiện thực phũ phàng, Kiều ngất đi trong hình bóng chàng Kim Trọng “Ôi Kim Lang”…, Kiều tự oán trách và đau đớn.

Câu 6 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Phân tích một vài biện pháp nghệ thuật nhằm miêu tả nội tâm nhân vật có trong đoạn trích Trao duyên (biện pháp ẩn dụ, độc thoại nội tâm, cách dùng thành ngữ,...).

Phương pháp giải:

Gợi nhớ những kiến thức về biện pháp tu từ để xác định chúng trong bài thơ.

Lời giải chi tiết:

- Trong đoạn tríchTrao duyên, để khắc họa lên tâm lí nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng rất thành công lời đối thoại và độc thoại của nhân vật:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

→ Kiều ý thức rất rő ràng trao duyên cho em là việc cần thiết và quan trọng. Nàng không chắc Thuý Vân có nhận lời hay không nên mỗi từ Thuý Kiều nói ra đều được cân nhắc hết sức kĩ càng. 

- Trong 8 câu thơ cuối đã sử dụng những thành ngữ để chỉ sự tan vỡ, dở dang và bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên cùng với số phận con người. Kiều quên đi nỗi đau của chính mình mà nghĩ nhiều hơn đến người khác. Kiều chuyển hẳn qua độc thoại nội tâm mang tính chất đối thoại với nhân vật vắng mặt (Kim Trọng). 

- Hàng loạt những câu cảm thán gợi lên tình yêu mãnh liệt nhưng sự chia biệt thì vĩnh viễn. Bi kịch càng lên cao, Kiều càng cảm thấy đau đớn, tuyệt vọng tới mức mê sảng, quên cả ý tứ để chuyển qua nói với người vắng mặt là Kim Trọng. Thúy Kiều từ chỗ nhận mình là một người mệnh bạc, giờ lại tự nhận là người phụ nữ phụ bạc với chàng Kim. 

- Đang độc thoại, nàng lại quay sang đối thoại tưởng tượng với chàng Kim Trọng, gọi tên chàng trong đớn đau tới mê sảng.

Câu 7 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Nêu cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều thông qua đoạn trích Trao duyên

Phương pháp giải:

Đọc lại toàn bộ bài thơ để cảm nhận về nhân vật Thúy Kiều từ Tính cách tới phẩm chất,…

Lời giải chi tiết:

Trao duyên là một trong những đoạn trích vô cùng tiêu biểu trong tác phẩm Truyện Kiều. Đoạn trích đã rất thành công trong việc khắc họa tâm lí của nhân vật Thúy Kiều, tái hiện lại bi kịch về tình yêu đầy đau đớn của Thúy Kiều. Vì chữ hiếu mà nàng phải gả cho tên Mã Giám Sinh, vốn dĩ trong cuộc sống thì chữ hiếu và chữ tình thường không thể trọn vẹn cả hai. Với nàng Kiều cũng thế, nàng chọn cứu cha nhưng cũng không đành lòng phụ tình cảm với Kim Trọng. Từ đó, cho dù nàng có đau xót và khóc than nhưng cũng phải tự dặn lòng trao tín vật và phải thuyết phục em gái thay mình đến với chàng Kim Trọng. Qua đó ta thấy Thuý Kiều là người con gái có tài sắc vẹn toàn, một người con vô cùng hiếu thảo, giàu ân tình và có một tấm lòng thủy chung son sắt. Thúy Kiều là người con gái sống ở giai đoạn phong kiến đang phồn thịnh, những giáo huấn của lề thói tam tòng và tứ đức buộc chặt lên thân xác của những người phụ nữ, chính bởi thế mà sự hy sinh tưởng chừng vô cùng lớn lao và cao cả của Thúy Kiều đặt vào hoàn cảnh xã hội ấy lại thấy sự hy sinh như thế là rất đỗi bình thường. Qua đây có thể thấy, thân phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thật sự rất đáng thương. 

2. Soạn bài trao duyên - sách kết nối tri thức

2.1 Trả lời câu hỏi trước khi đọc bài 

Mối tình của Kim - Kiều được tác giả Nguyễn Du miêu tả là một "thiên tình sử" tuyệt đẹp. Bạn hãy đọc một đoạn thơ trong tác phẩm Truyện Kiều hoặc một bài thơ của một tác giả khác nói về tình yêu của họ.

Lời giải chi tiết:

Kim Trọng phải về Liêu Dương để hộ tang chú. Lúc chia tay, Thúy Kiều phải chủ động trong chuyện tình cảm. Cái bệnh của nho sĩ chính là nghi ngờ, Kim Trọng không tin vào người yêu “dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng” nên chàng phải dặn dò:

Gìn vàng giữ ngọc cho hay,

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.

Để an ủi và động viên Kim Trọng, Thúy Kiều cũng lại một lần nữa khẳng định:

Đã nguyền hai chữ đồng tâm,

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.

2.2 Trả lời câu hỏi trong khi đọc bài 

Câu 1: Hình dung về bối cảnh của cuộc trao duyên (về thời gian, không gian và hoàn cảnh của các nhân vật)

Lời giải chi tiết:

Sau đêm thề nguyện của Kim Trọng với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp để hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập tới nhà Kiều vì sự vu oan của một thằng bán tơ. Cha và em trai bị đánh đập rất tàn nhẫn, của cải thì bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình để chuộc tội cho cha và em.

Câu 2: Chú ý về nội dung lời "hỏi han" của nhân vật Thúy Kiều 

Lời giải chi tiết:

Lời hỏi han của Thúy Kiều đã nhắc nhở Thúy Vân sao có thể vô tư và ngủ ngon lành như chẳng có chuyện gì xảy ra trong nhà như thế. May mà còn chợt tỉnh giấc và còn biết nghĩ tới chị. 

Câu 3: Theo dői cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Thúy Kiều

Lời giải chi tiết:

- Khi nói ra lời nhờ cậy với Thúy Vân: lòng bỗng rối như tơ vò 

- Khi trao lại kỉ vật cho Thúy Vân: xót xa và tủi thân 

Câu 4: Chú ý vào lời Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân lúc trao kỉ vật.

Lời giải chi tiết:

Khi tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra một cách tươi đẹp và đằm thắm thì thình lình tai hoạ lại dồn đến. Sau khi thu xếp công việc, bán mình để chuộc cha và em, ngày mai nàng sẽ phải đi theo Mã Giám Sinh rời xa nhà. Đêm ấy, Kiều không đành lòng với tình cảnh hết sức dang dở với Kim Trọng nên cuối cùng, sau khi tìm ra cách thuyết phục và trao duyên cho em gái, khi thấy Vân đã cảm thông thì Thúy Kiều mang từng kỉ vật trao tình yêu giữa mình và Kim Trọng và trao lại cho em gái.

Câu 5: Mười dòng thơ cuối cùng là lời Thúy Kiều nói chuyện với ai?

Lời giải chi tiết:

Thúy Kiều nói với Thúy Vân hãy thay mình kết duyên với chàng Kim Trọng.

2.3 Trả lời câu hỏi sau khi đọc bài 

Câu 1: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức 

Nêu rő bố cục của đoạn trích và chỉ ra đâu là lời của người kể chuyện, đâu là đoạn đối thoại và lời độc thoại của các nhân vật.

Lời giải chi tiết:

Bố cục: 

- Phần 1 (gồm 12 câu đầu): Kiều thuyết phục và đã trao duyên cho Thúy Vân

- Phần 2 (gồm 14 câu tiếp): Kiều trao những kỉ vật và dặn dò em gái

- Phần 3 (đoạn còn lại): Kiều đau đớn dẫn tới độc thoại nội tâm

Lời người kể chuyện ở các câu: 711,725,730 và 735

Lời đối thoại của nhân vật ở câu: 715,720,740 và 745

Lời độc thoại của nhân vật: 750 và 755.

Câu 2: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân vào thời điểm nào?

Lời giải chi tiết:

Việc trao duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân được diễn ra trước lúc Kiều thu xếp công việc bán mình.

Câu 3: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

 Đọc đoạn thơ (từ câu 719 tới 748) và trả lời những câu hỏi

Lời giải chi tiết:

a. “Cậy, lạy, thưa” là những từ ngữ khi người vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ ấy thể hiện sự tôn trọng rất đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình đã nhờ vả. Dù mình là vai trên nhưng Kiều không ra lệnh cho em. Tuy trong lòng cô có nhiều suy nghĩ và trăn trở nhưng vẫn hết sức bình tĩnh để xử lý, sắp xếp và thu vén chuyện của mình.

b. Kiều trình bày với em gái về hoàn cảnh của mình, về mối tình đang dang dở của mình với chàng Kim và mong rằng em hãy hiểu cho nỗi khổ tâm của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của nàng. Hai người đã có những cuộc hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không thể giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành được cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại cho Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều thể hiện nỗi đau khổ và day dứt mà nàng đang phải nếm trải. Nào ai muốn nhìn thấy cảnh cha và em trai bị oan ở trong tù? Nào ai muốn rời xa người mình yêu thương khi tình cảm đang rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho số phận nàng Kiều bạc mệnh.

c. Lúc trao kỉ vật cho Thúy Vân, Thúy Kiều đã dặn dò nàng rằng ''Duyên này'' là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều xem như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em nhưng những kỷ vật ấy thì xin em hãy coi chúng là ''của chung'' bởi chúng còn là của chị. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Thuý Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn rất bình tĩnh, nhưng đến khi trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất tất cả nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng ở trong lòng. Nàng tiếc nuối và đau đớn khi phải chia sẻ với người thứ ba. Trái tim lúc này bắt đầu lên tiếng. Cảnh ngộ bắt buộc Kiều phải ''lỗi thề'' nhưng trong đáy lòng nàng đâu có dễ dàng để có thể nguôi đi được lời thề khi xưa và đoạn tuyệt tình cũ ấy được. Đầy xót xa tủi nhục và đau đớn tận cùng, Thúy Kiều phải chăng vẫn giữ lại một chút an ủi nhỏ nhoi. Trao "duyên" xong, nhưng lòng Kiều lại càng nặng trĩu, đầy những giằng xé và níu kéo, tiếc nuối vô cùng. Lý trí đã bắt nàng phải từ bỏ tình yêu với chàng Kim Trọng ngày đêm yêu thương, nhưng trái tim của Kiều lại không cho phép nàng được làm vậy.

d. Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên được diễn ra thông qua ba chặng như ba nấc thang của tâm lý. Mở đầu là những lời yêu cầu rất khẩn thiết của Kiều đối với Thuý Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Hai câu thơ cho thấy rằng Kiều vừa khẩn khoản lại vừa thiết tha, vừa như đặt trọn niềm tin và hi vọng vào Vân. Trong các từ thể hiện sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,…Nguyễn Du đã lựa chọn từ “cậy”. Phải chăng vì chỉ có từ “cậy” mới hàm chứa được nội dung thông báo nhờ và tin? Lại nữa, tại sao “chịu lời” mà chẳng phải là “nhận lời”, tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” phía sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước thì chưa chắc Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” là đã thể hiện ý kiến của người nhận, là có sự tự nguyện của Thuý Vân. Nhưng Vân nào đã biết chuyện gì mà có thể tự nguyện hay không tự nguyện. Do vậy phải là “chịu lời”, vì đây chính là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào một hoàn cảnh không nhận không xong. Ở đây Kiều hiểu hoàn cảnh rất khó xử của mình và càng hiểu cho hoàn cảnh khó xử của cô em gái. Cũng qua đây có thể thấy rằng Nguyễn Du là thi sĩ rất “sâu sắc nước đời”.

Thúy Kiều đã không quá dài lời khi nói tới hoàn cảnh của mình. Những việc vừa diễn ra ai chẳng rő. Nhưng bất hạnh của Thuý Kiều thì chỉ Vân mới là người có thể thấu hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến được cả hai biến cố của đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và lúc “sóng gió bất kì”. Các mâu thuẫn lớn trong tâm trạng của Thúy Kiều lúc này không phải là giữa chữ hiếu và chữ tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa chữ hiếu và chữ tình, Kiều đã làm xong, tuy khó khăn nhưng vô cùng dứt khoát và thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu là chuyện về chữ hiếu thì Kiều đâu cần phải “cậy”, phải “lạy”, phải “thưa” với em gái của mình; việc gá duyên, với Vân là một trách nhiệm và nghĩa vụ. Mâu thuẫn chính được thể hiện thông qua đoạn trích là mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi với hạnh phúc bị tan vỡ. Sự dở dang và tan vỡ này được thể hiện thông qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ đó là “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” đã từng gặp trong câu ca dao. Thì ra, những đau khổ của Thúy Kiều đâu có xa lạ gì với những số phận của những người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn là nỗi đau đớn hơn bất cứ thiên tình sử nào trong nền văn học trước đó.

Sau tám câu mở đầu Kiều đã nói với Vân về nỗi bất hạnh của cuộc đời mình, về sự thấu hiểu cho hoàn cảnh khó xử của em gái, Kiều vẫn tiếp tục thuyết phục Vân thay nàng đi trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng giọng tâm sự biểu hiện thông qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ như: “lời nước non”, “tình máu mủ”, “thịt nát xương mòn” hay “ngậm cười chín suối”. Những lời tâm sự ấy có tác dụng thuyết phục mạnh mẽ. Kiều ràng buộc Vân bằng chính tình máu mủ, lại khẩn cầu em cho mình được chút vui, chút ơn và chút thơm lây từ đức hi sinh cao đẹp của em:

“Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Vừa thuyết phục, lại vừa ràng buộc, ràng buộc nhưng vẫn rất khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích của mình: nhờ Vân thay mình đi trả nghĩa cho Kim Trọng. Nhưng chính lúc mục đích đã đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều bị đẩy lên tới đỉnh cao. Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng tức là trả nghĩa, là do “xót tình máu mủ” chứ chẳng phải vì “lời nước non” cho nên Kiều chỉ có thể trao lại duyên cho Vân, còn tình yêu thì nàng đâu thể dễ trao. Với tình yêu, Kiều là một “người mệnh bạc”. Nàng tìm cách để trở về với tình yêu bằng hai con đường chính là để lại kỉ vật và linh hồn bất tử.

Kiều đã trao lại cho Vân những kỉ vật. Nàng chỉ mong rằng bằng những kỷ vật, nàng sẽ hiện diện ở trong tình yêu. Những kỷ vật hết sức thiêng liêng và đẹp đẽ: “Chiếc thoa với bức tờ mây” hay “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỷ vật vô cùng đẹp đẽ bởi nó gắn liền với những ngày tháng đẹp nhất của đời Kiều. Kỷ vật rất thiêng liêng bởi nó là của riêng – chỉ riêng của Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao đi cho người thứ ba, dù đó có là em mình. Bao xót xa thể hiện ở một từ “của chung”: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Bao đớn đau được thể hiện trong một từ “ngày xưa”: “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”. Hiện thực vô cùng đẹp đẽ và rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở nên quá vãng. Thời gian khách thể bị phá vỡ và nhường chỗ lại cho thời gian của tâm trạng. Kỷ vật còn đó mà trong tình yêu, Kiều lại không hiện diện. Có ý nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã đi mất. Con đường trở về bằng kỷ vật đã chẳng giúp được cho Kiều.

Kiều tìm tới con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu bằng chính linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều mong với sự trở về đó, nàng có thể trả nghĩa cho Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự đồng cảm từ người thương “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Thế nhưng, như đã có người từng nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ của Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn của Trương Chi được giải tỏa thì ở trong “Đoạn trường tân thanh”, giọt lệ của chàng Kim chẳng thể làm tan đi mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về với linh hồn bất tử là sự trở về chẳng thể gặp gỡ.

Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không những không giảm xuống mà còn được đẩy lên cao hơn. Ấy là khi sự trở về bằng chính linh hồn, sự trở về siêu hình bất lực trước những cảm xúc thực tế của người con gái họ Vương. Kiều ý thức được rất rő về cái hiện sinh và cái “bây giờ” thông qua các câu: “Trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “Tơ duyên ngắn ngủi”, “nước chảy hoa trôi”.

Kiều ý thức được về cái hiện hữu và cái “bây giờ”, Kiều càng thấy thương mình. Ai nỡ trách nàng sau khi đã thương người, vì người, nàng cũng tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng chẳng phải là vị kỉ mà vẫn thể hiện sự vị tha. “Vì người” thì hoàn toàn không có chút bóng dáng của sự đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi sự “đối với người” đều đã xong xuôi, bây giờ mới nhìn thấy tấm lòng mình, tình cảnh của mình. Nỗi đau của nàng càng sâu nặng biết bao. Tâm trạng bi kịch của Thuý Kiều càng trở nên sâu sắc. Trước sự chà đạp số phận của mình, nàng vẫn không khỏi khát vọng về một tình yêu thiết tha và vĩnh viễn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” hay “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện hữu của tình yêu làm cho Kiều quên đi sự hiện diện của người em gái. Đang từ đối thoại với Thuý Vân, Kiều quay sang độc thoại nội tâm và sau đó nàng như hướng tất cả tới Kim Trọng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong một câu thơ, tên Kim Trọng đã được gọi đến hai lần, kèm với những thán từ chỉ sự đớn đau và tuyệt vọng như “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên được ngắt nhịp 3/3 đọc lên tựa như tiếng nấc, để rồi tới câu thơ dưới nhịp thơ lại dài ra như một lời than thở. Lời trao duyên kết thúc bằng một câu than, bằng tiếng kêu vô cùng đớn đau, tuyệt vọng. Tuy tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng về tình yêu lại được khẳng định. Đó là nét đẹp rất cao quý trong tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn rất bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ có sự bi kịch, đau thương nhưng chẳng thê lương, đen tối mà trái lại vẫn ngời lên ánh sáng về niềm tin vào tình yêu và con người.

 

Câu 4: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Phân tích về diễn biến tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trong mười dòng thơ cuối cùng (chú ý về sự thay đổi của đối tượng tâm tình và giọng điệu).

Lời giải chi tiết:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

….……………………………..

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Sau khi đã trao duyên của mình cho Thúy Vân, Kiều lại âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng rằng nàng đã thật sự phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói thể hiện ra sự đau xót khi phải chia tay người mình yêu lúc tình cảm vẫn còn đang rất mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống vô cùng tăm tối phía trước đang chờ Kiều.

Tơ duyên của Kiều và Kim chỉ có thể ngắn ngủi từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho em gái mình là Thúy Vân.

Kiều đã phải thốt lên rằng: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi mà Kiều muốn gửi đến Kim, vừa là lời oán trách tại sao số phận mình lại bạc bẽo đến thế.

→ Kiều không chỉ có suy nghĩ về việc cứu cha và em trai, trao mối duyên của mình lại cho Vân mà còn suy nghĩ cho người đàn ông mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống cuộc sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ vậy, cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến cho người ta cảm thấy đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.

Diễn biến tâm lí của nhân vật Kiều đi qua rất nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách để cứu cha và em, trao mối duyên của mình cho người khác, đến việc nghĩ cho người mình rất yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng phía trước khiến người ta không khỏi xót xa.

Câu 5: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Nhận xét về nghệ thuật sử dụng từ ngữ của tác giả Nguyễn Du trong đoạn trích. Hãy minh họa bằng một ví dụ nào đó mà bạn cảm thấy tâm đắc.

Lời giải chi tiết:

Vẻ đẹp ngôn từ trong đoạn trích đã được thể hiện thông qua tính hình tượng, gợi lên những hình ảnh làm cho nhân vật và sự kiện như được hiện hữu ngoài đời thực. Tính hình tượng mang tới sức thuyết phục, đồng thời khơi gợi về sự đồng cảm và tri âm từ phía độc giả đối với người nghệ sĩ cũng như với những nhân vật trong tác phẩm. Hai câu thơ:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Thúy Kiều xét theo vai vế là bậc trên trong nhà, nhưng khi nhờ em lại phải dùng từ "cậy", hỏi ý kiến em gái qua "chịu lời". Vì nàng hiểu, điều mà nàng khẩn khoản nhờ em sắp tới thật khó chấp nhận được, nhưng Thúy Vân sẽ không cách nào có thể từ chối. "Lạy" rồi "thưa", Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều được tự kể lại câu chuyện về tình yêu bi kịch của chính mình trong một tâm thế của kẻ bề dưới, nhọc lòng mong mỏi người khác có thể giúp đỡ nàng. Những từ ngữ đắt giá không chỉ thể hiện lên hoàn cảnh khốn cùng của Thúy Kiều mà còn bộc lộ được sự mong chờ và tha thiết của nàng, mong em gái có thể chấp nhận lời cầu xin.

Đi thẳng vào vấn đề, Thúy Kiều đã bày tỏ, tâm sự với Thúy Vân về mối tình đang mặn nồng của mình và Kim Trọng. "Quạt ước", "chén thề", những vật làm niềm tin bí mật giữa Kim với Kiều. Vào đêm hôm đó, có đất, có trời, có cả trăng, có sao và có tấm lòng vô cùng son sắt, hai người đã trao cho nhau một chiếc quạt đính ước và ly rượu phu thê thề nguyền. Rồi còn có cả "chiếc vành với bức tờ mây" và "phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa", những kỉ vật tình yêu ấy được Thúy Kiều trang trọng cất giữ và giờ đây nàng trao lại chúng cho em gái với hi vọng rằng em sẽ thay thế vị trí của mình, nối tiếp mối duyên hồng với người nàng yêu. Tuy vậy, nàng Kiều trong phút giây đau khổ ấy vẫn muốn níu kéo lại chút tình cảm lứa đôi:

Duyên này thì giữ, vật này của chung

Cái luyến tiếc về những kí ức dấu yêu khiến cho Kiều bị dày vò về mặt tinh thần, không còn đủ tỉnh táo. Rő ràng là duyên đã được trao, lại mang thân phận đi cậy nhờ, nhưng nàng vẫn mong muốn "vật này của chung", vẫn muốn lưu giữ lại một chút kỉ niệm đáng nhớ của nàng và người yêu. Dễ hiểu cho một người con gái, người con gái mới chỉ biết yêu lần đầu, chẳng thể nào cam tâm bỏ đi hoàn toàn mối duyên tình, chỉ mong muốn rằng được gìn giữ lại cho bản thân một chút hình bóng nhỏ bé. Cảm xúc chân thật của Thúy Kiều đã gợi lên trong lòng người đọc một nỗi đồng cảm và thấu hiểu cho những day dứt của nàng, thấu hiểu tại sao nàng lại muốn giữ làm của chung đến vậy. Tình yêu vẫn nồng cháy như vậy, chẳng thể đành lòng chấm dứt.

Một chi tiết vô cùng đắt giá thể hiện lên tính hình tượng của vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật chính là khi Kiều nghĩ tới cái chết. Người con gái tuổi mới trăng tròn còn đang mơn mởn sức sống như vậy, nhưng đứng trước hoàn cảnh phải chia li, trong đầu chỉ quanh quẩn nghĩ về kết thúc bi kịch và cái chết.

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

"Bồ liễu" và "trúc mai" vốn là những hình ảnh tượng trưng hết sức quen thuộc trong văn thơ, mang tính biểu tượng hàm súc và gợi tả về dáng vẻ mong manh, liễu yếu đào tơ của những người con gái. Với Thúy Kiều, không chỉ có thân phận long đông, không có sức chống cự, mà "bồ liễu", "trúc mai" còn như tiếng than cho duyên phận bị lỡ làng, phúc phần mỏng manh mà nàng đang phải gánh chịu. Ra đi không mong ngày được trở về, trước mắt nàng chính là tương lai đen tối, mịt mù và là cái chết vĩnh hằng, bị chà đạp, coi như rẻ rúng đến chết. Xót xa thay cho một kiếp người, vẫn còn trẻ, vẫn biết yêu và biết rung động mà đã tự nghĩ đến cho mình cái chết cận kề. Tác giả không nói đến sự đau khổ, không đề cập trực tiếp tới tình yêu thiết tha của Thúy Kiều với Kim Trọng, nhưng câu thơ cuối bài, tiếng kêu của Kiều đã được thể hiện rất rő những bi kịch mà nàng đang gặp phải:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Kiều gọi Kim Trọng là "lang", là cách gọi chồng của người phụ nữ xưa. Đối với Kiều, chàng Kim không chỉ đơn thuần chỉ là người yêu, mà đó còn là chồng, là đức lang quân mà nàng đã trao gửi số phận. Vị trí của Kim Trọng trong tim của nàng quả thực rất to lớn. Nhưng giờ đây, nàng đành phải chấp nhận xa rời và chấp nhận từ bỏ mối tình đang rất nồng cháy với chàng, vì chữ hiếu, vì phải bán mình để có thể đổi lấy hạnh phúc cho người thân. Nàng đã phụ lòng chàng Kim, chỉ có thể thốt lên câu đầy ai oán. Bi kịch về tình yêu tan vỡ, những trái tim còn đang thổn thức yêu nhau bị chia rẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật đã bao hàm toàn bộ cảm xúc của nhân vật Kiều, độc giả dường như có thể thấu cảm được những diễn biến tâm trạng của nàng, từ sự cam chịu đến luyến tiếc rồi lại đau khổ tột cùng nhưng vẫn phải đối mặt với hiện thực phũ phàng. Tác giả đã chạm tới trái tim và lòng trắc ẩn của người đọc để cùng tri âm và sẻ chia sự đau xót đối với các nhân vật.

Vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong "Trao duyên" còn được thể hiện thông qua tính cá thể hóa, qua đó, Thúy Kiều đã bộc lộ được cá tính riêng biệt, không bị hòa lẫn của mình. Từng câu chữ trong tác phẩm đều đã tập trung gợi tả về thân phận tội nghiệp của nàng Kiều hồng nhan bạc mệnh, từng trang thơ chính là từng trang nước mắt khóc thương cho số phận người phụ nữ kém may mắn. Thúy Kiều hiện lên thông qua trang viết của Nguyễn Du là người con gái rất biết điều, biết nghĩ và hiếu thảo với cha mẹ, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình nhưng cũng vô cùng sắc sảo và chủ động trao duyên cho em gái vì vẫn muốn giữ trọn lời thề. Đặc biệt, cá tính của Thuý Kiều thể hiện ở chỗ, đã trao duyên cho Thúy Vân nhưng nàng vẫn có ý muốn được giữ lại chút ít kỉ vật giữa nàng với Kim Trọng, bộc lộ tính cách của một cô gái vô cùng mạnh mẽ và thông minh. "Trao duyên" thực chất là lời bộc bạch của nhân vật Thúy Kiều trong những cung bậc cảm xúc lẫn lộn và giằng xé. Tuy đau đớn là thế, tiếc là thế, đứng giữa những hồi ức vô cùng hạnh phúc và tương lai đầy bi kịch, nhưng sự tinh tế và sắc sảo mà ý nhị của người con gái đó vẫn được thể hiện một cách khéo léo. Qua đoạn trích, ta cũng thấy được rằng phong cách nghệ thuật mang đến tính nhân văn cao cả của Nguyễn Du, yêu thương, trân trọng và cảm thông trước những số phận cơ cực và bất hạnh.

Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật thông qua "Trao duyên" đã tạo ra kiệt tác Truyện Kiều, tạo nên tên tuổi của tác giả Nguyễn Du không chỉ trong nước mà còn mang sức ảnh hưởng tầm cỡ thế giới. Ngôn từ hết sức trong sáng, chọn lọc và mang nhiều tầng nghĩa vừa gợi tả, vừa gợi cảm cùng đảm bảo được ba chức năng chính: thông tin, hình tượng cùng với sự cá thể hóa đã đưa Truyện Kiều trở thành một chuẩn mực ngôn từ trong nền văn học thơ chữ Nôm. Với tác phẩm ấy, thơ chữ Nôm đã tạo nên một thành công rất vang dội, đưa chữ quốc ngữ của Việt Nam thời kỳ bấy giờ vươn tầm văn hóa, bản sắc đặc trưng riêng biệt của một dân tộc.

2.4 Kết nối đọc - viết trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Truyện Kiều là tiếng nói thể hiện sự hiểu đời, thương đời của tác giả Nguyễn Du. Viết đoạn văn (dài khoảng 150 chữ) chỉ ra những biểu hiện của sự "hiểu" và "thương" đó trong đoạn trích Trao duyên.

Lời giải chi tiết:

Thúy Kiều thực sự là một người phụ nữ đáng thương hơn đáng trách. Có thể mọi người sẽ thấy nàng làm như thế là ích kỷ bởi sao lại bắt em gái mình phải nên duyên với người đàn ông mình yêu. Nhưng khi xem xét kỹ về mọi góc độ ta sẽ thấy, điều này là hoàn toàn hợp lý. Kiều đã vì gia đình mà làm tròn chữ hiếu, đã từ bỏ hạnh phúc cuộc đời mình bằng việc bán thân – chuyện mà mọi người không dám làm và khi nàng đang chuẩn bị phải rời xa ngôi nhà, nhưng vì vẫn còn rất nặng lòng với Kim Trọng, nàng chẳng thể yên lòng rời đi và đó cũng chính là lúc nàng nhờ cậy đến Thúy Vân. Thúy Vân thực sự khó có thể từ chối mối duyên này bởi nàng rất thương chị gái và trước lời khẩn thiết như thế, nàng bắt buộc phải chấp nhận nó. Đến đây, ta thấy rằng Kiều thực sự đáng thương, nàng không muốn phụ bất kỳ ai ở đây cả và nàng đã chọn cách là trao duyên để mối tình ấy có phần được xoa dịu và vì thế, nó đáng thương hơn là đáng trách. 

3. Soạn bài trao duyên - sách chân trời sáng tạo  

3.1  Trả lời câu hỏi đọc hiểu

Câu 1: Phân biệt lời giữa người kể chuyện với lời của nhân vật trong đoạn này.

Lời giải chi tiết:

- Lời của nhân vật sẽ được dẫn trong dấu ngoặc kép " ".

- Lời của người kể thì không như vậy.

Câu 2: Cách mở đầu cho câu chuyện chuẩn bị nói với Thuý Vân của Thuý Kiều có gì khác thường?

Lời giải chi tiết:

Cách xưng hô và sử dụng từ khác thường (cậy, lạy, chịu lời, thưa…) mang ý nghĩa một phần nhờ vả và một phần nài ép Thúy Kiều coi đó là việc mà Thúy Vân cần làm “tình chị duyên em”.

- Lời nói:

+ “Cậy em”: nhờ vả và gửi gắm, mong đợi, tin vào sự giúp đỡ của em.

+ “Chịu lời”: Đồng nghĩa với việc “nhận lời” nhưng “nhận lời” nó còn hàm chứa sắc thái tự nguyện, có thể đồng ý hoặc là không đồng ý, còn “chịu lời” nghĩa là bắt buộc phải chấp nhận, không thể nào từ chối bởi nó mang sắc thái nài nỉ và nài ép của người nhờ cậy.

-> Ngôn ngữ vừa mang sự nhờ vả, vừa nài nỉ, lại vừa là sự ép buộc.

- Hành động “Lạy, thưa”: trang nghiêm và trịnh trọng, sự hạ mình của những người bề dưới với người bề trên -> cách nói tạo nên sự ràng buộc tế nhị

- Kiều là chị lại đi lạy và thưa em mình

-> Đây là hành động rất bất thường nhưng lại hoàn toàn bình hợp lý trong hoàn cảnh này vì hành động của Kiều như lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Bởi vậy, việc Thúy Kiều nhún nhường và hạ mình van nài Thúy Vân là hoàn toàn bình thường.

=> Hành động bất thường được đặt trong mối quan hệ với những từ ngữ đặc biệt đã nhấn mạnh tình cảnh éo le của Thúy Kiều.

Câu 3: Bạn hình dung như thế nào về dáng vẻ, tâm trạng và giọng nói của Thuý Kiều trong đoạn từ dòng thơ thứ 741 đến dòng 756 ở đoạn cuối văn bản?

Lời giải chi tiết:

- Chới với trước hoàn cảnh tương lai, Kiều như nửa tỉnh và nửa mê; nửa như đang còn sống, nửa như người đã chết rồi. Nói với em gái mà lời Kiều như phảng phất từ cői bên kia còn đang vọng về. Hình ảnh thơ chập chờn và ma mị, mang không khí liêu trai (qua chi tiết hồn, nát thân …) thể hiện nên sự cảm nhận của Thuý Kiều về số phận vô cùng bi thảm của mình, qua đó cho thấy được nỗi đau đớn trong lòng Kiều đang trực trào dâng cao tột độ.

-  “Bây giờ” của Kiều chính là “trâm gãy gương tan” và “tơ duyên ngắn ngủi”, là “phận bạc như vôi” và “nước chảy hoa trôi”. Hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” cùng một loạt những thành ngữ và từ ngữ dân gian cho thấy rằng sự ý thức sâu sắc về bi kịch hiện tại của Thuý Kiều. Thực tại đó hoàn toàn trái ngược với quá khứ hạnh phúc và đẹp đẽ không sao kể xiết mà nàng đã từng có "muôn vàn ái ân". Quá khứ giờ đây đã trở thành một niềm khát khao mãnh liệt của Kiều. Bi kịch vì thế càng sâu sắc.

- Câu thơ “Trăm nghìn gửi lại tình quân” đã thể hiện sự day dứt, giày vò và biểu hiện tình yêu cao đẹp của Kiều dành cho Kim Trọng, đồng thời cũng cho thấy Kiều có một nhân cách vị tha trong sáng.

Khi bi kịch trong tình yêu lên tới đỉnh điểm, Kiều thốt lên một tiếng kêu xé lòng: “Ôi Kim lang! hỡi Kim lang / Thôi thôi tiếp đã phụ chàng từ đây.”

+ Thán từ “ôi, hỡi” tựa như một tiếng nấc đau đớn.

+ Lời gọi được lặp đi lặp lại một cách trang trọng “Kim lang” như một lời kêu cứu đến tuyệt vọng.

+   Nhịp thơ 3/3 ở câu thơ trên thể hiện tiếng nấc nghẹn ngào, trong khi đấy, điệp từ “thôi” vừa thể hiện lên sự dằn vặt, vừa xác nhận về sự phụ bạc, nhịp thơ ngân dài giống một tiếng than vọng mãi không được hồi đáp, tiếng kêu cứu vô cùng tuyệt vọng.

3.2 Trả lời câu hỏi cuối bài 

Câu 1 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Việc “trao duyên” cùng với cuộc trò chuyện giữa chị em Thuý Kiều – Thuý Vân đã được thuật lại dựa theo ngôi kể nào? Những dấu hiệu gì giúp bạn nhận biết được điều đó?

Lời giải chi tiết:

- Việc “trao duyên” cùng cuộc trò chuyện giữa hai chị em Thúy Kiều - Thúy Vân đã được thuật lại dựa theo ngôi kể thứ ba.

- Dấu hiệu nhận biết đó là: 

+ Người kể - tác giả không xưng là “tôi” trong xuyên suốt nội dung của tác phẩm.

+ Khi giới thiệu về hội thoại của hai chị em Thúy Kiều - Thúy Vân, tác giả đã sử dụng tới “rằng” kết hợp cùng với dấu “:” để thông báo trước cho người đọc.

+ Miêu tả được rất cụ thể và chi tiết nội tâm cũng như hành động, biểu cảm và tâm trạng của Thúy Kiều - Thúy Vân.

Câu 2 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Xác định số dòng thơ đã biểu đạt lời của mỗi nhân vật. Chỉ ra sự khác biệt trong độ dài (đếm số dòng thơ) giữa lời thoại giữa hai nhân vật và giải thích cho sự khác biệt ấy.

Lời giải chi tiết:

- Số dòng thơ đã biểu đạt lời của nhân vật Thúy Kiều là 38 câu (từ 719 đến 756)

- Số dòng thơ đã biểu đạt lời của nhân vật Thúy Vân là 4 câu (từ 715 đến 718)

- Độ dài (tính số dòng thơ) của những dòng thơ biểu đạt lời của nhân vật Thúy Kiều nhiều hơn Thúy Vân.

- Có sự khác biệt giữa lời thoại của hai nhân vật đó là do:

+ Thúy Kiều là nhân vật chính, là nhân vật trung tâm đang muốn thể hiện tư tưởng và suy nghĩ, nội dung của tác giả ở trong tác phẩm.

+ Hơn nữa, tác giả muốn để cho Thúy Kiều diễn tả tình cảnh, lí do và tâm trạng nội tâm của mình để người đọc có thể nắm rő → từ đó người đọc có cái nhìn chi tiết, cụ thể về suy nghĩ, tư tưởng và nội tâm của nhân vật.

+ Đồng thời, nội dung chủ đạo của văn bản chính là khung cảnh “trao duyên” của Thúy Kiều cho Thúy Vân cho nên Thuý Kiều đóng vai trò là phía chủ động, có nhiều lời cần dặn dò và nhờ cậy. Ngược lại Thúy Vân, là người thấy bất ngờ, bị động nên còn không kịp nói và hành động được gì.

Câu 3 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Lời thoại của nhân vật Thuý Vân có vai trò gì đối với sự tiến triển của câu chuyện?

Lời giải chi tiết:

Lời thoại của Thúy Vân đóng vai trò làm tiền đề, là chiếc chìa khóa mở ra nội dung cho câu chuyện, đóng vai trò hết sức quan trọng với sự tiến triển của câu chuyện. Nhờ vào câu hỏi han ân cần của Thúy Vân mà Thúy Kiều có thể bày tỏ lòng mình và mở lời để nhờ cậy em mình.

Lời thoại của Thúy Vân tuy có dung lượng rất ngắn nhưng lại là chi tiết vàng, có sự ảnh hưởng trực tiếp và quyết định tới sự tiến triển của toàn bộ câu chuyện ở trong đoạn trích “Trao Duyên”.

Câu 4 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Tóm tắt lại lời thoại của Thuý Kiều và trả lời câu hỏi

Lời giải chi tiết:

a. Lời thoại của Kiều ở trong văn bản là kết hợp giữa tự sự với biểu cảm. Khi thì kể lại cho Thúy Vân nghe về hoàn cảnh của mình để em có thể thông cảm và chấp nhận giúp mình. Khi thì bày tỏ cảm xúc cùng với nội tâm buồn tủi, dằn vặt tới xót xa.

b. Từ dòng thơ 741 tới dòng thơ 756, lời của Thúy Kiều hướng tới Kim Trọng - là lời độc thoại. Lời của Thúy Kiều là những lời tự trách rất lớn với Kim Trọng, cho nên gửi lại chàng trăm lạy và nghìn lạy. Đồng thời là lời oán trách cho số phận bất hạnh nhưng cũng thể hiện sự bất lực của Kiều.

Câu 5 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Chỉ ra sự thay đổi trong tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều trước, trong và sau khi trao lại kỉ vật cho Thuý Vân.

Lời giải chi tiết:

Sự thay đổi trong tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân đó là:

- Trước khi trao kỉ vật: 

+ Buồn bã và phiền lòng vì hoàn cảnh tình yêu giữa mình và chàng Kim. 

+ Khi Thúy Vân mở lời hỏi han thì Thúy Kiều mới dám mở lời nhờ cậy, giãi bày và mở lời thuyết phục của mình với Thúy Vân trước một sự việc hết sức hệ trọng mà nàng sắp thực hiện. 

- Trong lúc trao kỉ vật:

+ Sự giằng xé ở trong tâm trạng của Thúy Kiều: Cây đàn hồ ngày nào nàng đàn cho kim trọng và mảnh trầm hương ngày nào đã từng chứng kiến lời thề cũng để lại cho em gái như là của tin. Đối với chị chúng đã trở thành một quá khứ xa xôi. Đến đây Kiều lại cảm thấy mình là người đã chết. Kiều đã mất toàn bộ niềm tin vào hiện tại.

+ Một khối những mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều: trao kỉ vật cho em gái mà lời gửi trao chất chứa bao nỗi đau đớn, giằng xé và chua chát

- Sau khi đã trao kỉ vật:

+ Từ khi trao lại kỷ vật,  Kiều dường như đã quên hẳn hiện tại, nàng chỉ sống với cái mai hậu hư vô của bản thân, vì nàng hi vọng em gái và chàng Kim tương lai sẽ thật hạnh phúc. Hiện tại với nàng chỉ như con số không.

+ Kiều tự cảm thấy có lỗi lớn với Kim Trọng, cho nên đã gửi lại chàng trăm lạy và nghìn lạy.

+ Kiều than thở và thương xót cho Kim.  "Thôi thôi" cũng là tiếng than tiếc và dằn vặt tột cùng, là sự xác nhận cho sự phụ bạc của chính mình. 

Câu 6  trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Xác định chủ đề của văn bản "Trao duyên" sau đó cho biết, phần văn bản ấy có vai trò như thế nào trong việc góp phần thể hiện chủ đề chính trong "Truyện Kiều".

Lời giải chi tiết:

- Chủ đề của văn bản Trao duyên chính là chuỗi bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều.

- Văn bản Trao duyên đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần thể hiện lên chủ đề của Truyện Kiều. Phần văn bản ấy tạo ra sự liên kết giữa các tuyến nhân vật trong câu chuyện và giúp cho độc giả hiểu rő hơn về cảm xúc và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Đồng thời giúp cho người đọc cảm nhận được sự đau khổ ở trong bi kịch tình yêu của Thuý Kiều và nhận thức được về giá trị của tình yêu cùng với sự chung thủy trong cuộc sống.

 

Soạn trước tác phẩm sẽ giúp các em hiểu hơn về tác giả, tác phẩm để trong quá trình học chính trên lớp không gặp khó khăn. Bài viết phía trên đã soạn bài Trao duyên trong ba cuốn sách Cánh diều, Kết nối tri thức và Chân trời sáng tạo. VUIHOC tin chắc rằng, sau khi tham khảo bài viết, các em sẽ phần nào nắm được nghệ thuật và nội dung của bài. Ngoài ra, để học thêm những học phần khác thuộc ngữ văn 11 kết nối tri thức và chân trời sáng tạo, cánh diều hoặc tất cả các môn học khác, các em nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký những khoá học của VUIHOC để trải nghiệm học cùng các thầy cô ngay nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-trao-duyen-ngu-van-11-canh-dieu-ket-noi-tri-thuc-chan-troi-sang-tao-2283.html

 

 

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek