Trao duyên là một đoạn trích trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Bằng ngôn ngữ đầy tính nghệ thuật, tác giả đã thể hiện đặc sắc diễn biến tâm trạng vô cùng bế tắc của Thúy Kiều vào đêm trao duyên. Cùng theo dői soạn bài trao duyên trong chương trình Ngữ Văn 11 của ba đầu sách Cánh diều, Kết nối tri thức và Chân trời sáng tạo dưới đây.

1. Soạn bài trao duyên - sách cánh diều 

1.1 Trả lời câu hỏi đọc hiểu

Câu 1: Chú ý về lời nói, hành động và lí lẽ của Thúy Kiều lúc thuyết phục Thúy Vân.

Phương pháp giải:

Đọc lại 14 câu thơ đầu sau đó tìm ra lời nói, hành động và lí lẽ của Thúy Kiều lúc thuyết phục Thúy Vân.

Lời giải chi tiết:

- Lời nói, hành động và lí lẽ của Thúy Kiều lúc thuyết phục Thuý Vân thay mình đi trả nghĩa bằng cách kết duyên với Kim Trọng:

+ Kể về mối tình của nàng với chàng Kim:

“đứt gánh tương tư”: tức mối tình đang dở dang, đứt quãng.

“mối tơ thừa”: mối tình duyên giữa Kim - Kiều; “chắp mối”: Thúy Vân sẽ là người phụ nữ nhận lại mối tình đang dang dở ấy.

“Quạt ước, chén thề”: Là một điển tích gợi tả hình ảnh hai người tặng nhau quạt nhằm tỏ ý trăm năm và uống rượu cùng nhau để thề nguyền một lòng chung thủy.

+ Những lí do khiến cho Kiều muốn trao duyên cho em: 

Kiều đã khơi ra tình cảnh ngang trái và khó xử của mình để Vân có thể thấu hiểu. Vân vẫn còn rất trẻ và còn cả một tương lai phía trước.

→ Kiều thuyết phục em bằng tất cả tình cảm ruột thịt.

Câu 2: Thúy Kiều đã để lại những kỉ vật gì của tình yêu?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ 14 câu thơ đầu, chú ý vào các chi tiết thể hiện kỉ vật tình yêu.

Lời giải chi tiết:

- Kiều đem kỉ vật của tình yêu để gửi gắm nơi em gái mình: 

+ Chiếc vành

+ Bức tờ mây

+ Phím đàn 

+ Mảnh hương nguyền.

Câu 3: Thúy Kiều đã nghĩ về điều gì khi chẳng may nàng “thác oan”?

Phương pháp giải:

Đọc tiếp 8 câu thơ tiếp theo, chú ý về suy nghĩ của Thúy Kiều

Lời giải chi tiết:

Thúy Kiều nghĩ đến tình yêu dành cho Kim Trọng, dẫu có “thác oan” thì vẫn giữ nguyên lòng thủy chung, tình yêu mãnh liệt và bất tử. Qua đó, ta thấy được tình cảm lý trí đan xen, sự giằng xé, đau đớn và nhớ thương Kim Trọng tới tột cùng của Kiều.

Câu 4: Thúy Kiều đã nói với ai? Về điều gì? Tâm trạng của Thuý Kiều lúc đó như thế nào?

Phương pháp giải:

Đọc 12 câu thơ cuối cùng, chú ý vào cách xưng hô của nhân vật Thúy Kiều, chi tiết thể hiện lên tâm trạng.

Lời giải chi tiết:

- Thúy Kiều nói với Kim Trọng về khát vọng trong tình yêu mãnh liệt với hiện thực quá phũ phàng. 

- Kiều ngất đi trong hình bóng của chàng Kim Trọng “Ôi Kim Lang…”.

- Kiều tự trách thân mình và đau đớn. 

→ Tâm trạng của Kiều giằng xé nhiều mâu thuẫn, đau đớn tới tột cùng.

1.2  Trả lời câu hỏi cuối bài 

Câu 1 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Đoạn trích Trao duyên được chia làm mấy phần? Hãy nêu lên nội dung chính của từng phần.

Phương pháp giải:

Đọc lại toàn bộ đoạn trích sau đó phân chia bố cục và nêu nội dung chính của mỗi phần

Lời giải chi tiết:

+ 12 câu đầu: Lời nhờ vả và thuyết phục trao duyên cho Thúy Vân của nhân vật Thúy Kiều.

+ 14 câu tiếp: Thúy Kiều đem trao kỉ vật và dặn dò em.

+ 8 câu cuối: Thúy Kiều đối mặt với thực tại và lời nhắn gửi tới Kim Trọng.

Câu 2 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều

Thuý Kiều đã có những lời nói, hành động và lí lẽ gì để thuyết phục Thuý Vân có thể thay mình đi trả nghĩa và kết duyên với Kim Trọng?

Phương pháp giải:

Đọc lại 14 câu đầu, chú ý vào những lời nói, hành động cũng như lí lẽ để thuyết phục.

Lời giải chi tiết:

Những lời nói, hành động cũng như lí lẽ của Thúy Kiều nhằm thuyết phục Thúy Vân thay mình đi trả nghĩa và kết duyên với Kim Trọng:

- Lời nhờ cậy của Thuý Kiều:

+ “Cậy”: một thanh trắc với âm điệu rất nặng nề, gợi sự quằn quại tới đau đớn, khó nói, còn mang ý nghĩa là trông mong và giúp đỡ, hi vọng tới tha thiết, sự gửi gắm đầy niềm tin.

+ Chịu: bắt buộc, nài ép và không thể từ chối.

→ Thúy Vân bị ép vào thế dù nàng không muốn nhưng cũng phải nhận tình yêu mà chị mình trao.

- Hành động nhờ cậy:

+ “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn rất trang trọng với người bề trên hoặc người mang ơn.

→ Sự thay ngôi đổi bậc, đi ngược với lễ giáo phong kiến nhưng vẫn chấp nhận được, bởi: Kiều coi Vân như một ân nhân của mình. Kiều rất trân trọng tình yêu đối với Kim Trọng. Cách nói đã thể hiện lên sự thông minh và khéo léo của Thúy Kiều.

- Lí lẽ của Thuý Kiều:

+ “Ngày xuân em hãy còn dài” gợi lên tình cảnh hết sức ngang trái, khó xử của mình để em gái thấu hiểu.

+ “Xót tình máu mủ thay lời nước non”: Vân vẫn còn rất trẻ, còn cả một tương lai phía trước.

+ “Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối”: nói đến cái chết đầy mãn nguyện.

→ Cách lập luận vô cùng chặt chẽ và thấu tình cho thấy Thúy Kiều là một người sắc sảo tinh tế, là người có đức hi sinh, một người con rất hiếu thảo và trọng tình nghĩa. 

Câu 3 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Vì sao sau khi nhờ cậy Thúy Vân thay mình đi kết duyên với Kim Trọng, bi kịch của Thuý Kiều lại càng thêm căng thẳng?

Phương pháp giải:

Chú ý vào nội dung của tác phẩm Truyện Kiều.

Lời giải chi tiết:

Sau khi nhờ cậy Thuý Vân thay mình đi kết duyên với Kim Trọng thì bi kịch của Thuý Kiều lại càng tăng vì nàng không được ở bên người mình yêu nữa mà phải kết hôn với tên Mã Giám Sinh, hắn là tên lừa đảo. Tương lai của nàng không biết sẽ phải lưu lạc đến đâu, bao giờ mới có thể tái ngộ cùng người thân.

 

Câu 4 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Việc Thuý Kiều để lại những kỉ vật của tình yêu nói lên ý nghĩa gì?

Phương pháp giải:

Chú ý vào những chi tiết thể hiện lên cảm xúc và lời nói của Thúy Kiều.

Lời giải chi tiết:

Những kỷ vật ấy đại diện cho tình yêu giữa nàng và Kim Trọng. Việc Kiều đưa cho Thúy Vân những kỷ vật chính là để đem tình yêu của mình trao đi. Nàng mong những kỉ vật tình yêu ấy có thể giữ thành của cả ba người, tuy trao kỉ vật cho Vân nhưng nàng chẳng thể trao được tình yêu với chàng Kim, tình yêu càng mãnh liệt và sâu sắc bao nhiêu thì càng thấy bi kịch đau khổ bấy nhiêu.

Câu 5 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Đoạn Trao duyên là lời của nhân vật Thuý Kiều nói với những ai? Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều thông qua sự chuyển đổi lời thoại.

Phương pháp giải:

Chú ý vào những sự chuyển đổi lời thoại để nhận ra nhân vật Thúy Kiều đang nói với những ai.

Lời giải chi tiết:

- Kiều đối thoại với Vân, với chính bản thân mình và với chàng Kim Trọng.

+ Với Vân: Kiều vô cùng biết ơn, yên tâm và thanh thản vì mâu thuẫn đã được giải quyết tạm thời.

+ Với chính mình: tâm trạng giằng xé chất chứa mâu thuẫn, đau đớn tới tột cùng.

+ Với Kim Trọng: Khát vọng về tình yêu mãnh liệt trong hiện thực phũ phàng, Kiều ngất đi trong hình bóng chàng Kim Trọng “Ôi Kim Lang”…, Kiều tự oán trách và đau đớn.

Câu 6 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Phân tích một vài biện pháp nghệ thuật nhằm miêu tả nội tâm nhân vật có trong đoạn trích Trao duyên (biện pháp ẩn dụ, độc thoại nội tâm, cách dùng thành ngữ,...).

Phương pháp giải:

Gợi nhớ những kiến thức về biện pháp tu từ để xác định chúng trong bài thơ.

Lời giải chi tiết:

- Trong đoạn tríchTrao duyên, để khắc họa lên tâm lí nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng rất thành công lời đối thoại và độc thoại của nhân vật:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

→ Kiều ý thức rất rő ràng trao duyên cho em là việc cần thiết và quan trọng. Nàng không chắc Thuý Vân có nhận lời hay không nên mỗi từ Thuý Kiều nói ra đều được cân nhắc hết sức kĩ càng. 

- Trong 8 câu thơ cuối đã sử dụng những thành ngữ để chỉ sự tan vỡ, dở dang và bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên cùng với số phận con người. Kiều quên đi nỗi đau của chính mình mà nghĩ nhiều hơn đến người khác. Kiều chuyển hẳn qua độc thoại nội tâm mang tính chất đối thoại với nhân vật vắng mặt (Kim Trọng). 

- Hàng loạt những câu cảm thán gợi lên tình yêu mãnh liệt nhưng sự chia biệt thì vĩnh viễn. Bi kịch càng lên cao, Kiều càng cảm thấy đau đớn, tuyệt vọng tới mức mê sảng, quên cả ý tứ để chuyển qua nói với người vắng mặt là Kim Trọng. Thúy Kiều từ chỗ nhận mình là một người mệnh bạc, giờ lại tự nhận là người phụ nữ phụ bạc với chàng Kim. 

- Đang độc thoại, nàng lại quay sang đối thoại tưởng tượng với chàng Kim Trọng, gọi tên chàng trong đớn đau tới mê sảng.

Câu 7 trang 46 SGK Văn 11/1 Cánh diều 

Nêu cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều thông qua đoạn trích Trao duyên

Phương pháp giải:

Đọc lại toàn bộ bài thơ để cảm nhận về nhân vật Thúy Kiều từ Tính cách tới phẩm chất,…

Lời giải chi tiết:

Trao duyên là một trong những đoạn trích vô cùng tiêu biểu trong tác phẩm Truyện Kiều. Đoạn trích đã rất thành công trong việc khắc họa tâm lí của nhân vật Thúy Kiều, tái hiện lại bi kịch về tình yêu đầy đau đớn của Thúy Kiều. Vì chữ hiếu mà nàng phải gả cho tên Mã Giám Sinh, vốn dĩ trong cuộc sống thì chữ hiếu và chữ tình thường không thể trọn vẹn cả hai. Với nàng Kiều cũng thế, nàng chọn cứu cha nhưng cũng không đành lòng phụ tình cảm với Kim Trọng. Từ đó, cho dù nàng có đau xót và khóc than nhưng cũng phải tự dặn lòng trao tín vật và phải thuyết phục em gái thay mình đến với chàng Kim Trọng. Qua đó ta thấy Thuý Kiều là người con gái có tài sắc vẹn toàn, một người con vô cùng hiếu thảo, giàu ân tình và có một tấm lòng thủy chung son sắt. Thúy Kiều là người con gái sống ở giai đoạn phong kiến đang phồn thịnh, những giáo huấn của lề thói tam tòng và tứ đức buộc chặt lên thân xác của những người phụ nữ, chính bởi thế mà sự hy sinh tưởng chừng vô cùng lớn lao và cao cả của Thúy Kiều đặt vào hoàn cảnh xã hội ấy lại thấy sự hy sinh như thế là rất đỗi bình thường. Qua đây có thể thấy, thân phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thật sự rất đáng thương. 

2. Soạn bài trao duyên - sách kết nối tri thức

2.1 Trả lời câu hỏi trước khi đọc bài 

Mối tình của Kim - Kiều được tác giả Nguyễn Du miêu tả là một "thiên tình sử" tuyệt đẹp. Bạn hãy đọc một đoạn thơ trong tác phẩm Truyện Kiều hoặc một bài thơ của một tác giả khác nói về tình yêu của họ.

Lời giải chi tiết:

Kim Trọng phải về Liêu Dương để hộ tang chú. Lúc chia tay, Thúy Kiều phải chủ động trong chuyện tình cảm. Cái bệnh của nho sĩ chính là nghi ngờ, Kim Trọng không tin vào người yêu “dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng” nên chàng phải dặn dò:

Gìn vàng giữ ngọc cho hay,

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.

Để an ủi và động viên Kim Trọng, Thúy Kiều cũng lại một lần nữa khẳng định:

Đã nguyền hai chữ đồng tâm,

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.

2.2 Trả lời câu hỏi trong khi đọc bài 

Câu 1: Hình dung về bối cảnh của cuộc trao duyên (về thời gian, không gian và hoàn cảnh của các nhân vật)

Lời giải chi tiết:

Sau đêm thề nguyện của Kim Trọng với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp để hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập tới nhà Kiều vì sự vu oan của một thằng bán tơ. Cha và em trai bị đánh đập rất tàn nhẫn, của cải thì bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình để chuộc tội cho cha và em.

Câu 2: Chú ý về nội dung lời "hỏi han" của nhân vật Thúy Kiều 

Lời giải chi tiết:

Lời hỏi han của Thúy Kiều đã nhắc nhở Thúy Vân sao có thể vô tư và ngủ ngon lành như chẳng có chuyện gì xảy ra trong nhà như thế. May mà còn chợt tỉnh giấc và còn biết nghĩ tới chị. 

Câu 3: Theo dői cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Thúy Kiều

Lời giải chi tiết:

- Khi nói ra lời nhờ cậy với Thúy Vân: lòng bỗng rối như tơ vò 

- Khi trao lại kỉ vật cho Thúy Vân: xót xa và tủi thân 

Câu 4: Chú ý vào lời Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân lúc trao kỉ vật.

Lời giải chi tiết:

Khi tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra một cách tươi đẹp và đằm thắm thì thình lình tai hoạ lại dồn đến. Sau khi thu xếp công việc, bán mình để chuộc cha và em, ngày mai nàng sẽ phải đi theo Mã Giám Sinh rời xa nhà. Đêm ấy, Kiều không đành lòng với tình cảnh hết sức dang dở với Kim Trọng nên cuối cùng, sau khi tìm ra cách thuyết phục và trao duyên cho em gái, khi thấy Vân đã cảm thông thì Thúy Kiều mang từng kỉ vật trao tình yêu giữa mình và Kim Trọng và trao lại cho em gái.

Câu 5: Mười dòng thơ cuối cùng là lời Thúy Kiều nói chuyện với ai?

Lời giải chi tiết:

Thúy Kiều nói với Thúy Vân hãy thay mình kết duyên với chàng Kim Trọng.

2.3 Trả lời câu hỏi sau khi đọc bài 

Câu 1: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức 

Nêu rő bố cục của đoạn trích và chỉ ra đâu là lời của người kể chuyện, đâu là đoạn đối thoại và lời độc thoại của các nhân vật.

Lời giải chi tiết:

Bố cục: 

- Phần 1 (gồm 12 câu đầu): Kiều thuyết phục và đã trao duyên cho Thúy Vân

- Phần 2 (gồm 14 câu tiếp): Kiều trao những kỉ vật và dặn dò em gái

- Phần 3 (đoạn còn lại): Kiều đau đớn dẫn tới độc thoại nội tâm

Lời người kể chuyện ở các câu: 711,725,730 và 735

Lời đối thoại của nhân vật ở câu: 715,720,740 và 745

Lời độc thoại của nhân vật: 750 và 755.

Câu 2: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân vào thời điểm nào?

Lời giải chi tiết:

Việc trao duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân được diễn ra trước lúc Kiều thu xếp công việc bán mình.

Câu 3: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

 Đọc đoạn thơ (từ câu 719 tới 748) và trả lời những câu hỏi

Lời giải chi tiết:

a. “Cậy, lạy, thưa” là những từ ngữ khi người vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ ấy thể hiện sự tôn trọng rất đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình đã nhờ vả. Dù mình là vai trên nhưng Kiều không ra lệnh cho em. Tuy trong lòng cô có nhiều suy nghĩ và trăn trở nhưng vẫn hết sức bình tĩnh để xử lý, sắp xếp và thu vén chuyện của mình.

b. Kiều trình bày với em gái về hoàn cảnh của mình, về mối tình đang dang dở của mình với chàng Kim và mong rằng em hãy hiểu cho nỗi khổ tâm của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của nàng. Hai người đã có những cuộc hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không thể giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành được cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại cho Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều thể hiện nỗi đau khổ và day dứt mà nàng đang phải nếm trải. Nào ai muốn nhìn thấy cảnh cha và em trai bị oan ở trong tù? Nào ai muốn rời xa người mình yêu thương khi tình cảm đang rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho số phận nàng Kiều bạc mệnh.

c. Lúc trao kỉ vật cho Thúy Vân, Thúy Kiều đã dặn dò nàng rằng ''Duyên này'' là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều xem như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em nhưng những kỷ vật ấy thì xin em hãy coi chúng là ''của chung'' bởi chúng còn là của chị. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Thuý Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn rất bình tĩnh, nhưng đến khi trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất tất cả nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng ở trong lòng. Nàng tiếc nuối và đau đớn khi phải chia sẻ với người thứ ba. Trái tim lúc này bắt đầu lên tiếng. Cảnh ngộ bắt buộc Kiều phải ''lỗi thề'' nhưng trong đáy lòng nàng đâu có dễ dàng để có thể nguôi đi được lời thề khi xưa và đoạn tuyệt tình cũ ấy được. Đầy xót xa tủi nhục và đau đớn tận cùng, Thúy Kiều phải chăng vẫn giữ lại một chút an ủi nhỏ nhoi. Trao "duyên" xong, nhưng lòng Kiều lại càng nặng trĩu, đầy những giằng xé và níu kéo, tiếc nuối vô cùng. Lý trí đã bắt nàng phải từ bỏ tình yêu với chàng Kim Trọng ngày đêm yêu thương, nhưng trái tim của Kiều lại không cho phép nàng được làm vậy.

d. Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên được diễn ra thông qua ba chặng như ba nấc thang của tâm lý. Mở đầu là những lời yêu cầu rất khẩn thiết của Kiều đối với Thuý Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Hai câu thơ cho thấy rằng Kiều vừa khẩn khoản lại vừa thiết tha, vừa như đặt trọn niềm tin và hi vọng vào Vân. Trong các từ thể hiện sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,…Nguyễn Du đã lựa chọn từ “cậy”. Phải chăng vì chỉ có từ “cậy” mới hàm chứa được nội dung thông báo nhờ và tin? Lại nữa, tại sao “chịu lời” mà chẳng phải là “nhận lời”, tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” phía sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước thì chưa chắc Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” là đã thể hiện ý kiến của người nhận, là có sự tự nguyện của Thuý Vân. Nhưng Vân nào đã biết chuyện gì mà có thể tự nguyện hay không tự nguyện. Do vậy phải là “chịu lời”, vì đây chính là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào một hoàn cảnh không nhận không xong. Ở đây Kiều hiểu hoàn cảnh rất khó xử của mình và càng hiểu cho hoàn cảnh khó xử của cô em gái. Cũng qua đây có thể thấy rằng Nguyễn Du là thi sĩ rất “sâu sắc nước đời”.

Thúy Kiều đã không quá dài lời khi nói tới hoàn cảnh của mình. Những việc vừa diễn ra ai chẳng rő. Nhưng bất hạnh của Thuý Kiều thì chỉ Vân mới là người có thể thấu hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến được cả hai biến cố của đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và lúc “sóng gió bất kì”. Các mâu thuẫn lớn trong tâm trạng của Thúy Kiều lúc này không phải là giữa chữ hiếu và chữ tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa chữ hiếu và chữ tình, Kiều đã làm xong, tuy khó khăn nhưng vô cùng dứt khoát và thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu là chuyện về chữ hiếu thì Kiều đâu cần phải “cậy”, phải “lạy”, phải “thưa” với em gái của mình; việc gá duyên, với Vân là một trách nhiệm và nghĩa vụ. Mâu thuẫn chính được thể hiện thông qua đoạn trích là mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi với hạnh phúc bị tan vỡ. Sự dở dang và tan vỡ này được thể hiện thông qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ đó là “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” đã từng gặp trong câu ca dao. Thì ra, những đau khổ của Thúy Kiều đâu có xa lạ gì với những số phận của những người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn là nỗi đau đớn hơn bất cứ thiên tình sử nào trong nền văn học trước đó.

Sau tám câu mở đầu Kiều đã nói với Vân về nỗi bất hạnh của cuộc đời mình, về sự thấu hiểu cho hoàn cảnh khó xử của em gái, Kiều vẫn tiếp tục thuyết phục Vân thay nàng đi trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng giọng tâm sự biểu hiện thông qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ như: “lời nước non”, “tình máu mủ”, “thịt nát xương mòn” hay “ngậm cười chín suối”. Những lời tâm sự ấy có tác dụng thuyết phục mạnh mẽ. Kiều ràng buộc Vân bằng chính tình máu mủ, lại khẩn cầu em cho mình được chút vui, chút ơn và chút thơm lây từ đức hi sinh cao đẹp của em:

“Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Vừa thuyết phục, lại vừa ràng buộc, ràng buộc nhưng vẫn rất khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích của mình: nhờ Vân thay mình đi trả nghĩa cho Kim Trọng. Nhưng chính lúc mục đích đã đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều bị đẩy lên tới đỉnh cao. Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng tức là trả nghĩa, là do “xót tình máu mủ” chứ chẳng phải vì “lời nước non” cho nên Kiều chỉ có thể trao lại duyên cho Vân, còn tình yêu thì nàng đâu thể dễ trao. Với tình yêu, Kiều là một “người mệnh bạc”. Nàng tìm cách để trở về với tình yêu bằng hai con đường chính là để lại kỉ vật và linh hồn bất tử.

Kiều đã trao lại cho Vân những kỉ vật. Nàng chỉ mong rằng bằng những kỷ vật, nàng sẽ hiện diện ở trong tình yêu. Những kỷ vật hết sức thiêng liêng và đẹp đẽ: “Chiếc thoa với bức tờ mây” hay “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỷ vật vô cùng đẹp đẽ bởi nó gắn liền với những ngày tháng đẹp nhất của đời Kiều. Kỷ vật rất thiêng liêng bởi nó là của riêng – chỉ riêng của Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao đi cho người thứ ba, dù đó có là em mình. Bao xót xa thể hiện ở một từ “của chung”: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Bao đớn đau được thể hiện trong một từ “ngày xưa”: “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”. Hiện thực vô cùng đẹp đẽ và rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở nên quá vãng. Thời gian khách thể bị phá vỡ và nhường chỗ lại cho thời gian của tâm trạng. Kỷ vật còn đó mà trong tình yêu, Kiều lại không hiện diện. Có ý nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã đi mất. Con đường trở về bằng kỷ vật đã chẳng giúp được cho Kiều.

Kiều tìm tới con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu bằng chính linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều mong với sự trở về đó, nàng có thể trả nghĩa cho Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự đồng cảm từ người thương “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Thế nhưng, như đã có người từng nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ của Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn của Trương Chi được giải tỏa thì ở trong “Đoạn trường tân thanh”, giọt lệ của chàng Kim chẳng thể làm tan đi mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về với linh hồn bất tử là sự trở về chẳng thể gặp gỡ.

Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không những không giảm xuống mà còn được đẩy lên cao hơn. Ấy là khi sự trở về bằng chính linh hồn, sự trở về siêu hình bất lực trước những cảm xúc thực tế của người con gái họ Vương. Kiều ý thức được rất rő về cái hiện sinh và cái “bây giờ” thông qua các câu: “Trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “Tơ duyên ngắn ngủi”, “nước chảy hoa trôi”.

Kiều ý thức được về cái hiện hữu và cái “bây giờ”, Kiều càng thấy thương mình. Ai nỡ trách nàng sau khi đã thương người, vì người, nàng cũng tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng chẳng phải là vị kỉ mà vẫn thể hiện sự vị tha. “Vì người” thì hoàn toàn không có chút bóng dáng của sự đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi sự “đối với người” đều đã xong xuôi, bây giờ mới nhìn thấy tấm lòng mình, tình cảnh của mình. Nỗi đau của nàng càng sâu nặng biết bao. Tâm trạng bi kịch của Thuý Kiều càng trở nên sâu sắc. Trước sự chà đạp số phận của mình, nàng vẫn không khỏi khát vọng về một tình yêu thiết tha và vĩnh viễn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” hay “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện hữu của tình yêu làm cho Kiều quên đi sự hiện diện của người em gái. Đang từ đối thoại với Thuý Vân, Kiều quay sang độc thoại nội tâm và sau đó nàng như hướng tất cả tới Kim Trọng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong một câu thơ, tên Kim Trọng đã được gọi đến hai lần, kèm với những thán từ chỉ sự đớn đau và tuyệt vọng như “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên được ngắt nhịp 3/3 đọc lên tựa như tiếng nấc, để rồi tới câu thơ dưới nhịp thơ lại dài ra như một lời than thở. Lời trao duyên kết thúc bằng một câu than, bằng tiếng kêu vô cùng đớn đau, tuyệt vọng. Tuy tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng về tình yêu lại được khẳng định. Đó là nét đẹp rất cao quý trong tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn rất bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ có sự bi kịch, đau thương nhưng chẳng thê lương, đen tối mà trái lại vẫn ngời lên ánh sáng về niềm tin vào tình yêu và con người.

 

Câu 4: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Phân tích về diễn biến tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trong mười dòng thơ cuối cùng (chú ý về sự thay đổi của đối tượng tâm tình và giọng điệu).

Lời giải chi tiết:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

….……………………………..

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Sau khi đã trao duyên của mình cho Thúy Vân, Kiều lại âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng rằng nàng đã thật sự phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói thể hiện ra sự đau xót khi phải chia tay người mình yêu lúc tình cảm vẫn còn đang rất mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống vô cùng tăm tối phía trước đang chờ Kiều.

Tơ duyên của Kiều và Kim chỉ có thể ngắn ngủi từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho em gái mình là Thúy Vân.

Kiều đã phải thốt lên rằng: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi mà Kiều muốn gửi đến Kim, vừa là lời oán trách tại sao số phận mình lại bạc bẽo đến thế.

→ Kiều không chỉ có suy nghĩ về việc cứu cha và em trai, trao mối duyên của mình lại cho Vân mà còn suy nghĩ cho người đàn ông mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống cuộc sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ vậy, cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến cho người ta cảm thấy đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.

Diễn biến tâm lí của nhân vật Kiều đi qua rất nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách để cứu cha và em, trao mối duyên của mình cho người khác, đến việc nghĩ cho người mình rất yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng phía trước khiến người ta không khỏi xót xa.

Câu 5: trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Nhận xét về nghệ thuật sử dụng từ ngữ của tác giả Nguyễn Du trong đoạn trích. Hãy minh họa bằng một ví dụ nào đó mà bạn cảm thấy tâm đắc.

Lời giải chi tiết:

Vẻ đẹp ngôn từ trong đoạn trích đã được thể hiện thông qua tính hình tượng, gợi lên những hình ảnh làm cho nhân vật và sự kiện như được hiện hữu ngoài đời thực. Tính hình tượng mang tới sức thuyết phục, đồng thời khơi gợi về sự đồng cảm và tri âm từ phía độc giả đối với người nghệ sĩ cũng như với những nhân vật trong tác phẩm. Hai câu thơ:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Thúy Kiều xét theo vai vế là bậc trên trong nhà, nhưng khi nhờ em lại phải dùng từ "cậy", hỏi ý kiến em gái qua "chịu lời". Vì nàng hiểu, điều mà nàng khẩn khoản nhờ em sắp tới thật khó chấp nhận được, nhưng Thúy Vân sẽ không cách nào có thể từ chối. "Lạy" rồi "thưa", Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều được tự kể lại câu chuyện về tình yêu bi kịch của chính mình trong một tâm thế của kẻ bề dưới, nhọc lòng mong mỏi người khác có thể giúp đỡ nàng. Những từ ngữ đắt giá không chỉ thể hiện lên hoàn cảnh khốn cùng của Thúy Kiều mà còn bộc lộ được sự mong chờ và tha thiết của nàng, mong em gái có thể chấp nhận lời cầu xin.

Đi thẳng vào vấn đề, Thúy Kiều đã bày tỏ, tâm sự với Thúy Vân về mối tình đang mặn nồng của mình và Kim Trọng. "Quạt ước", "chén thề", những vật làm niềm tin bí mật giữa Kim với Kiều. Vào đêm hôm đó, có đất, có trời, có cả trăng, có sao và có tấm lòng vô cùng son sắt, hai người đã trao cho nhau một chiếc quạt đính ước và ly rượu phu thê thề nguyền. Rồi còn có cả "chiếc vành với bức tờ mây" và "phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa", những kỉ vật tình yêu ấy được Thúy Kiều trang trọng cất giữ và giờ đây nàng trao lại chúng cho em gái với hi vọng rằng em sẽ thay thế vị trí của mình, nối tiếp mối duyên hồng với người nàng yêu. Tuy vậy, nàng Kiều trong phút giây đau khổ ấy vẫn muốn níu kéo lại chút tình cảm lứa đôi:

Duyên này thì giữ, vật này của chung

Cái luyến tiếc về những kí ức dấu yêu khiến cho Kiều bị dày vò về mặt tinh thần, không còn đủ tỉnh táo. Rő ràng là duyên đã được trao, lại mang thân phận đi cậy nhờ, nhưng nàng vẫn mong muốn "vật này của chung", vẫn muốn lưu giữ lại một chút kỉ niệm đáng nhớ của nàng và người yêu. Dễ hiểu cho một người con gái, người con gái mới chỉ biết yêu lần đầu, chẳng thể nào cam tâm bỏ đi hoàn toàn mối duyên tình, chỉ mong muốn rằng được gìn giữ lại cho bản thân một chút hình bóng nhỏ bé. Cảm xúc chân thật của Thúy Kiều đã gợi lên trong lòng người đọc một nỗi đồng cảm và thấu hiểu cho những day dứt của nàng, thấu hiểu tại sao nàng lại muốn giữ làm của chung đến vậy. Tình yêu vẫn nồng cháy như vậy, chẳng thể đành lòng chấm dứt.

Một chi tiết vô cùng đắt giá thể hiện lên tính hình tượng của vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật chính là khi Kiều nghĩ tới cái chết. Người con gái tuổi mới trăng tròn còn đang mơn mởn sức sống như vậy, nhưng đứng trước hoàn cảnh phải chia li, trong đầu chỉ quanh quẩn nghĩ về kết thúc bi kịch và cái chết.

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

"Bồ liễu" và "trúc mai" vốn là những hình ảnh tượng trưng hết sức quen thuộc trong văn thơ, mang tính biểu tượng hàm súc và gợi tả về dáng vẻ mong manh, liễu yếu đào tơ của những người con gái. Với Thúy Kiều, không chỉ có thân phận long đông, không có sức chống cự, mà "bồ liễu", "trúc mai" còn như tiếng than cho duyên phận bị lỡ làng, phúc phần mỏng manh mà nàng đang phải gánh chịu. Ra đi không mong ngày được trở về, trước mắt nàng chính là tương lai đen tối, mịt mù và là cái chết vĩnh hằng, bị chà đạp, coi như rẻ rúng đến chết. Xót xa thay cho một kiếp người, vẫn còn trẻ, vẫn biết yêu và biết rung động mà đã tự nghĩ đến cho mình cái chết cận kề. Tác giả không nói đến sự đau khổ, không đề cập trực tiếp tới tình yêu thiết tha của Thúy Kiều với Kim Trọng, nhưng câu thơ cuối bài, tiếng kêu của Kiều đã được thể hiện rất rő những bi kịch mà nàng đang gặp phải:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Kiều gọi Kim Trọng là "lang", là cách gọi chồng của người phụ nữ xưa. Đối với Kiều, chàng Kim không chỉ đơn thuần chỉ là người yêu, mà đó còn là chồng, là đức lang quân mà nàng đã trao gửi số phận. Vị trí của Kim Trọng trong tim của nàng quả thực rất to lớn. Nhưng giờ đây, nàng đành phải chấp nhận xa rời và chấp nhận từ bỏ mối tình đang rất nồng cháy với chàng, vì chữ hiếu, vì phải bán mình để có thể đổi lấy hạnh phúc cho người thân. Nàng đã phụ lòng chàng Kim, chỉ có thể thốt lên câu đầy ai oán. Bi kịch về tình yêu tan vỡ, những trái tim còn đang thổn thức yêu nhau bị chia rẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật đã bao hàm toàn bộ cảm xúc của nhân vật Kiều, độc giả dường như có thể thấu cảm được những diễn biến tâm trạng của nàng, từ sự cam chịu đến luyến tiếc rồi lại đau khổ tột cùng nhưng vẫn phải đối mặt với hiện thực phũ phàng. Tác giả đã chạm tới trái tim và lòng trắc ẩn của người đọc để cùng tri âm và sẻ chia sự đau xót đối với các nhân vật.

Vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong "Trao duyên" còn được thể hiện thông qua tính cá thể hóa, qua đó, Thúy Kiều đã bộc lộ được cá tính riêng biệt, không bị hòa lẫn của mình. Từng câu chữ trong tác phẩm đều đã tập trung gợi tả về thân phận tội nghiệp của nàng Kiều hồng nhan bạc mệnh, từng trang thơ chính là từng trang nước mắt khóc thương cho số phận người phụ nữ kém may mắn. Thúy Kiều hiện lên thông qua trang viết của Nguyễn Du là người con gái rất biết điều, biết nghĩ và hiếu thảo với cha mẹ, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình nhưng cũng vô cùng sắc sảo và chủ động trao duyên cho em gái vì vẫn muốn giữ trọn lời thề. Đặc biệt, cá tính của Thuý Kiều thể hiện ở chỗ, đã trao duyên cho Thúy Vân nhưng nàng vẫn có ý muốn được giữ lại chút ít kỉ vật giữa nàng với Kim Trọng, bộc lộ tính cách của một cô gái vô cùng mạnh mẽ và thông minh. "Trao duyên" thực chất là lời bộc bạch của nhân vật Thúy Kiều trong những cung bậc cảm xúc lẫn lộn và giằng xé. Tuy đau đớn là thế, tiếc là thế, đứng giữa những hồi ức vô cùng hạnh phúc và tương lai đầy bi kịch, nhưng sự tinh tế và sắc sảo mà ý nhị của người con gái đó vẫn được thể hiện một cách khéo léo. Qua đoạn trích, ta cũng thấy được rằng phong cách nghệ thuật mang đến tính nhân văn cao cả của Nguyễn Du, yêu thương, trân trọng và cảm thông trước những số phận cơ cực và bất hạnh.

Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật thông qua "Trao duyên" đã tạo ra kiệt tác Truyện Kiều, tạo nên tên tuổi của tác giả Nguyễn Du không chỉ trong nước mà còn mang sức ảnh hưởng tầm cỡ thế giới. Ngôn từ hết sức trong sáng, chọn lọc và mang nhiều tầng nghĩa vừa gợi tả, vừa gợi cảm cùng đảm bảo được ba chức năng chính: thông tin, hình tượng cùng với sự cá thể hóa đã đưa Truyện Kiều trở thành một chuẩn mực ngôn từ trong nền văn học thơ chữ Nôm. Với tác phẩm ấy, thơ chữ Nôm đã tạo nên một thành công rất vang dội, đưa chữ quốc ngữ của Việt Nam thời kỳ bấy giờ vươn tầm văn hóa, bản sắc đặc trưng riêng biệt của một dân tộc.

2.4 Kết nối đọc - viết trang 16 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Truyện Kiều là tiếng nói thể hiện sự hiểu đời, thương đời của tác giả Nguyễn Du. Viết đoạn văn (dài khoảng 150 chữ) chỉ ra những biểu hiện của sự "hiểu" và "thương" đó trong đoạn trích Trao duyên.

Lời giải chi tiết:

Thúy Kiều thực sự là một người phụ nữ đáng thương hơn đáng trách. Có thể mọi người sẽ thấy nàng làm như thế là ích kỷ bởi sao lại bắt em gái mình phải nên duyên với người đàn ông mình yêu. Nhưng khi xem xét kỹ về mọi góc độ ta sẽ thấy, điều này là hoàn toàn hợp lý. Kiều đã vì gia đình mà làm tròn chữ hiếu, đã từ bỏ hạnh phúc cuộc đời mình bằng việc bán thân – chuyện mà mọi người không dám làm và khi nàng đang chuẩn bị phải rời xa ngôi nhà, nhưng vì vẫn còn rất nặng lòng với Kim Trọng, nàng chẳng thể yên lòng rời đi và đó cũng chính là lúc nàng nhờ cậy đến Thúy Vân. Thúy Vân thực sự khó có thể từ chối mối duyên này bởi nàng rất thương chị gái và trước lời khẩn thiết như thế, nàng bắt buộc phải chấp nhận nó. Đến đây, ta thấy rằng Kiều thực sự đáng thương, nàng không muốn phụ bất kỳ ai ở đây cả và nàng đã chọn cách là trao duyên để mối tình ấy có phần được xoa dịu và vì thế, nó đáng thương hơn là đáng trách. 

3. Soạn bài trao duyên - sách chân trời sáng tạo  

3.1  Trả lời câu hỏi đọc hiểu

Câu 1: Phân biệt lời giữa người kể chuyện với lời của nhân vật trong đoạn này.

Lời giải chi tiết:

- Lời của nhân vật sẽ được dẫn trong dấu ngoặc kép " ".

- Lời của người kể thì không như vậy.

Câu 2: Cách mở đầu cho câu chuyện chuẩn bị nói với Thuý Vân của Thuý Kiều có gì khác thường?

Lời giải chi tiết:

Cách xưng hô và sử dụng từ khác thường (cậy, lạy, chịu lời, thưa…) mang ý nghĩa một phần nhờ vả và một phần nài ép Thúy Kiều coi đó là việc mà Thúy Vân cần làm “tình chị duyên em”.

- Lời nói:

+ “Cậy em”: nhờ vả và gửi gắm, mong đợi, tin vào sự giúp đỡ của em.

+ “Chịu lời”: Đồng nghĩa với việc “nhận lời” nhưng “nhận lời” nó còn hàm chứa sắc thái tự nguyện, có thể đồng ý hoặc là không đồng ý, còn “chịu lời” nghĩa là bắt buộc phải chấp nhận, không thể nào từ chối bởi nó mang sắc thái nài nỉ và nài ép của người nhờ cậy.

-> Ngôn ngữ vừa mang sự nhờ vả, vừa nài nỉ, lại vừa là sự ép buộc.

- Hành động “Lạy, thưa”: trang nghiêm và trịnh trọng, sự hạ mình của những người bề dưới với người bề trên -> cách nói tạo nên sự ràng buộc tế nhị

- Kiều là chị lại đi lạy và thưa em mình

-> Đây là hành động rất bất thường nhưng lại hoàn toàn bình hợp lý trong hoàn cảnh này vì hành động của Kiều như lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Bởi vậy, việc Thúy Kiều nhún nhường và hạ mình van nài Thúy Vân là hoàn toàn bình thường.

=> Hành động bất thường được đặt trong mối quan hệ với những từ ngữ đặc biệt đã nhấn mạnh tình cảnh éo le của Thúy Kiều.

Câu 3: Bạn hình dung như thế nào về dáng vẻ, tâm trạng và giọng nói của Thuý Kiều trong đoạn từ dòng thơ thứ 741 đến dòng 756 ở đoạn cuối văn bản?

Lời giải chi tiết:

- Chới với trước hoàn cảnh tương lai, Kiều như nửa tỉnh và nửa mê; nửa như đang còn sống, nửa như người đã chết rồi. Nói với em gái mà lời Kiều như phảng phất từ cői bên kia còn đang vọng về. Hình ảnh thơ chập chờn và ma mị, mang không khí liêu trai (qua chi tiết hồn, nát thân …) thể hiện nên sự cảm nhận của Thuý Kiều về số phận vô cùng bi thảm của mình, qua đó cho thấy được nỗi đau đớn trong lòng Kiều đang trực trào dâng cao tột độ.

-  “Bây giờ” của Kiều chính là “trâm gãy gương tan” và “tơ duyên ngắn ngủi”, là “phận bạc như vôi” và “nước chảy hoa trôi”. Hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” cùng một loạt những thành ngữ và từ ngữ dân gian cho thấy rằng sự ý thức sâu sắc về bi kịch hiện tại của Thuý Kiều. Thực tại đó hoàn toàn trái ngược với quá khứ hạnh phúc và đẹp đẽ không sao kể xiết mà nàng đã từng có "muôn vàn ái ân". Quá khứ giờ đây đã trở thành một niềm khát khao mãnh liệt của Kiều. Bi kịch vì thế càng sâu sắc.

- Câu thơ “Trăm nghìn gửi lại tình quân” đã thể hiện sự day dứt, giày vò và biểu hiện tình yêu cao đẹp của Kiều dành cho Kim Trọng, đồng thời cũng cho thấy Kiều có một nhân cách vị tha trong sáng.

Khi bi kịch trong tình yêu lên tới đỉnh điểm, Kiều thốt lên một tiếng kêu xé lòng: “Ôi Kim lang! hỡi Kim lang / Thôi thôi tiếp đã phụ chàng từ đây.”

+ Thán từ “ôi, hỡi” tựa như một tiếng nấc đau đớn.

+ Lời gọi được lặp đi lặp lại một cách trang trọng “Kim lang” như một lời kêu cứu đến tuyệt vọng.

+   Nhịp thơ 3/3 ở câu thơ trên thể hiện tiếng nấc nghẹn ngào, trong khi đấy, điệp từ “thôi” vừa thể hiện lên sự dằn vặt, vừa xác nhận về sự phụ bạc, nhịp thơ ngân dài giống một tiếng than vọng mãi không được hồi đáp, tiếng kêu cứu vô cùng tuyệt vọng.

3.2 Trả lời câu hỏi cuối bài 

Câu 1 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Việc “trao duyên” cùng với cuộc trò chuyện giữa chị em Thuý Kiều – Thuý Vân đã được thuật lại dựa theo ngôi kể nào? Những dấu hiệu gì giúp bạn nhận biết được điều đó?

Lời giải chi tiết:

- Việc “trao duyên” cùng cuộc trò chuyện giữa hai chị em Thúy Kiều - Thúy Vân đã được thuật lại dựa theo ngôi kể thứ ba.

- Dấu hiệu nhận biết đó là: 

+ Người kể - tác giả không xưng là “tôi” trong xuyên suốt nội dung của tác phẩm.

+ Khi giới thiệu về hội thoại của hai chị em Thúy Kiều - Thúy Vân, tác giả đã sử dụng tới “rằng” kết hợp cùng với dấu “:” để thông báo trước cho người đọc.

+ Miêu tả được rất cụ thể và chi tiết nội tâm cũng như hành động, biểu cảm và tâm trạng của Thúy Kiều - Thúy Vân.

Câu 2 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Xác định số dòng thơ đã biểu đạt lời của mỗi nhân vật. Chỉ ra sự khác biệt trong độ dài (đếm số dòng thơ) giữa lời thoại giữa hai nhân vật và giải thích cho sự khác biệt ấy.

Lời giải chi tiết:

- Số dòng thơ đã biểu đạt lời của nhân vật Thúy Kiều là 38 câu (từ 719 đến 756)

- Số dòng thơ đã biểu đạt lời của nhân vật Thúy Vân là 4 câu (từ 715 đến 718)

- Độ dài (tính số dòng thơ) của những dòng thơ biểu đạt lời của nhân vật Thúy Kiều nhiều hơn Thúy Vân.

- Có sự khác biệt giữa lời thoại của hai nhân vật đó là do:

+ Thúy Kiều là nhân vật chính, là nhân vật trung tâm đang muốn thể hiện tư tưởng và suy nghĩ, nội dung của tác giả ở trong tác phẩm.

+ Hơn nữa, tác giả muốn để cho Thúy Kiều diễn tả tình cảnh, lí do và tâm trạng nội tâm của mình để người đọc có thể nắm rő → từ đó người đọc có cái nhìn chi tiết, cụ thể về suy nghĩ, tư tưởng và nội tâm của nhân vật.

+ Đồng thời, nội dung chủ đạo của văn bản chính là khung cảnh “trao duyên” của Thúy Kiều cho Thúy Vân cho nên Thuý Kiều đóng vai trò là phía chủ động, có nhiều lời cần dặn dò và nhờ cậy. Ngược lại Thúy Vân, là người thấy bất ngờ, bị động nên còn không kịp nói và hành động được gì.

Câu 3 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Lời thoại của nhân vật Thuý Vân có vai trò gì đối với sự tiến triển của câu chuyện?

Lời giải chi tiết:

Lời thoại của Thúy Vân đóng vai trò làm tiền đề, là chiếc chìa khóa mở ra nội dung cho câu chuyện, đóng vai trò hết sức quan trọng với sự tiến triển của câu chuyện. Nhờ vào câu hỏi han ân cần của Thúy Vân mà Thúy Kiều có thể bày tỏ lòng mình và mở lời để nhờ cậy em mình.

Lời thoại của Thúy Vân tuy có dung lượng rất ngắn nhưng lại là chi tiết vàng, có sự ảnh hưởng trực tiếp và quyết định tới sự tiến triển của toàn bộ câu chuyện ở trong đoạn trích “Trao Duyên”.

Câu 4 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Tóm tắt lại lời thoại của Thuý Kiều và trả lời câu hỏi

Lời giải chi tiết:

a. Lời thoại của Kiều ở trong văn bản là kết hợp giữa tự sự với biểu cảm. Khi thì kể lại cho Thúy Vân nghe về hoàn cảnh của mình để em có thể thông cảm và chấp nhận giúp mình. Khi thì bày tỏ cảm xúc cùng với nội tâm buồn tủi, dằn vặt tới xót xa.

b. Từ dòng thơ 741 tới dòng thơ 756, lời của Thúy Kiều hướng tới Kim Trọng - là lời độc thoại. Lời của Thúy Kiều là những lời tự trách rất lớn với Kim Trọng, cho nên gửi lại chàng trăm lạy và nghìn lạy. Đồng thời là lời oán trách cho số phận bất hạnh nhưng cũng thể hiện sự bất lực của Kiều.

Câu 5 trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Chỉ ra sự thay đổi trong tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều trước, trong và sau khi trao lại kỉ vật cho Thuý Vân.

Lời giải chi tiết:

Sự thay đổi trong tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân đó là:

- Trước khi trao kỉ vật: 

+ Buồn bã và phiền lòng vì hoàn cảnh tình yêu giữa mình và chàng Kim. 

+ Khi Thúy Vân mở lời hỏi han thì Thúy Kiều mới dám mở lời nhờ cậy, giãi bày và mở lời thuyết phục của mình với Thúy Vân trước một sự việc hết sức hệ trọng mà nàng sắp thực hiện. 

- Trong lúc trao kỉ vật:

+ Sự giằng xé ở trong tâm trạng của Thúy Kiều: Cây đàn hồ ngày nào nàng đàn cho kim trọng và mảnh trầm hương ngày nào đã từng chứng kiến lời thề cũng để lại cho em gái như là của tin. Đối với chị chúng đã trở thành một quá khứ xa xôi. Đến đây Kiều lại cảm thấy mình là người đã chết. Kiều đã mất toàn bộ niềm tin vào hiện tại.

+ Một khối những mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều: trao kỉ vật cho em gái mà lời gửi trao chất chứa bao nỗi đau đớn, giằng xé và chua chát

- Sau khi đã trao kỉ vật:

+ Từ khi trao lại kỷ vật,  Kiều dường như đã quên hẳn hiện tại, nàng chỉ sống với cái mai hậu hư vô của bản thân, vì nàng hi vọng em gái và chàng Kim tương lai sẽ thật hạnh phúc. Hiện tại với nàng chỉ như con số không.

+ Kiều tự cảm thấy có lỗi lớn với Kim Trọng, cho nên đã gửi lại chàng trăm lạy và nghìn lạy.

+ Kiều than thở và thương xót cho Kim.  "Thôi thôi" cũng là tiếng than tiếc và dằn vặt tột cùng, là sự xác nhận cho sự phụ bạc của chính mình. 

Câu 6  trang 41 SGK Văn 11/2 Chân trời sáng tạo

Xác định chủ đề của văn bản "Trao duyên" sau đó cho biết, phần văn bản ấy có vai trò như thế nào trong việc góp phần thể hiện chủ đề chính trong "Truyện Kiều".

Lời giải chi tiết:

- Chủ đề của văn bản Trao duyên chính là chuỗi bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều.

- Văn bản Trao duyên đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần thể hiện lên chủ đề của Truyện Kiều. Phần văn bản ấy tạo ra sự liên kết giữa các tuyến nhân vật trong câu chuyện và giúp cho độc giả hiểu rő hơn về cảm xúc và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Đồng thời giúp cho người đọc cảm nhận được sự đau khổ ở trong bi kịch tình yêu của Thuý Kiều và nhận thức được về giá trị của tình yêu cùng với sự chung thủy trong cuộc sống.

 

Soạn trước tác phẩm sẽ giúp các em hiểu hơn về tác giả, tác phẩm để trong quá trình học chính trên lớp không gặp khó khăn. Bài viết phía trên đã soạn bài Trao duyên trong ba cuốn sách Cánh diều, Kết nối tri thức và Chân trời sáng tạo. VUIHOC tin chắc rằng, sau khi tham khảo bài viết, các em sẽ phần nào nắm được nghệ thuật và nội dung của bài. Ngoài ra, để học thêm những học phần khác thuộc ngữ văn 11 kết nối tri thức và chân trời sáng tạo, cánh diều hoặc tất cả các môn học khác, các em nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký những khoá học của VUIHOC để trải nghiệm học cùng các thầy cô ngay nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-trao-duyen-ngu-van-11-canh-dieu-ket-noi-tri-thuc-chan-troi-sang-tao-2283.html