Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

Soạn bài nhân vật giao tiếp

Trong giao tiếp hằng ngày luôn luôn xuất hiện những nhân vật giao tiếp. Đó là những đối tượng vô cùng quan trọng đối với những đoạn hội thoại hoặc đối thoại. Đây là phần kiến thức quan trọng cần phải nắm được vậy nên VUIHOC đã viết bài này giúp các em soạn bài nhân vật giao tiếp và từ đó hướng dẫn các câu hỏi luyện tập.

1. Soạn bài nhân vật giao tiếp

1.1 Câu 1: SGK Ngữ văn 12/2 trang 18

Đề bài: Đọc đoạn trích dưới đây và phân tích dựa vào các câu hỏi được đưa ra phía dưới:

Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!

Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:

-  Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!

Thị cong cớn:

-  Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?

Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:

-  Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!

Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.

-   Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.

                                                                                                                     (Kim Lân, Vợ nhặt)

a) Trong những hoạt động giao tiếp phía trên, các nhân vật có đặc điểm gì về tuổi tác, giới tính và tầng lớp xã hội?

Trong những hoạt động giao tiếp phía trên, các nhân vật có những đặc điểm sau đây:

Các nhân vật giao tiếp trong đoạn trích trên là Tràng, mấy cô gái và nhân vật “thị”

  • Về lứa tuổi: Họ đều là những người thanh niên trẻ tuổi

  • Về giới tính: Tràng giới tính nam, còn lại là giới tính nữ

  • Về tầng lớp xã hội: Họ đều là những người dân lao động sống một cuộc sống nghèo đói.

b) Các nhân vật giao tiếp đã thay đổi vai người nói, người nghe và luân phiên lượt lời như thế nào? Lượt lời đầu tiên của nhân vật “thị” muốn hướng đến ai?
Các nhân vật giao tiếp đã thay đổi vai người nói, người nghe và luân phiên lượt lời như dưới đây:

Lúc đầu: Hắn (chỉ nhân vật Tràng) là người nói còn mấy cô gái là người nghe.
Tiếp theo: Mấy cô gái là người nói còn nhân vật Tràng và "thị" là người nghe.
Tiếp theo: "Thị" là người nói, còn nhân vật Tràng (chủ yếu) và mấy cô gái là người nghe.
Tiếp theo: Tràng là người nói còn "Thị" là người nghe.
Cuối cùng: "Thị" là người nói còn Tràng là người nghe.

c) Các nhân vật giao tiếp phía trên có bình đẳng về vị thế ở trong xã hội hay không?

Các nhân vật giao tiếp phía trên vô cùng bình đẳng về vị thế ở trong xã hội (họ đều là những người dân lao động cùng có cuộc sống nghèo khổ)

d) Họ có quan hệ như thế nào (xa lạ hay thân thiết) khi tham gia cuộc giao tiếp không?

Khi tham gia vào cuộc giao tiếp, các nhân vật giao tiếp phía trên có quan hệ vô cùng xa lạ.

e) Những đặc điểm về vị thế xã hội, lứa tuổi, giới tính, quan hệ thân sơ, nghề nghiệp chi phối như thế nào tới lời nói của các nhân vật?

Những đặc điểm về vị thế xã hội, lứa tuổi, giới tính, quan hệ thân-sơ, nghề nghiệp,... đã góp phần chi phối lời nói của nhân vật trong quá trình giao tiếp. Ban đầu còn chưa quen nên giao tiếp chỉ mang tính chất là trêu đùa và thăm dò. Nhưng dần dần, khi đã quen và mạnh dạn hơn do cùng lứa tuổi, bình đẳng về vị thế ở trong xã hội, lại cùng cảnh ngộ nghèo khổ nên những nhân vật giao tiếp tỏ ra hết cực thoải mái.

1.2 Câu 2: SGK Ngữ văn 12/2 trang 20

Đề bài: Đọc đoạn trích dưới đây và phân tích theo những câu hỏi được nêu phía dưới:

Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
- Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?

   Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:

- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?

   Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng. Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:

- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?

  Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:

- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mầy đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.

   Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?

   Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:

- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.

   Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.

   Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:

- Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.

    Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:

- Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người ta đun nước, mau lên!

                                                                                                                          (Nam Cao, Chí Phèo)


a) Trong đoạn trích phía trên có tất cả bao nhiêu nhân vật giao tiếp và họ là ai? Trường hợp nào Bá Kiến chỉ nói với một người nghe duy nhất, trường hợp nào Bá Kiến lại nói với nhiều người nghe?

Các nhân vật giao tiếp xuất hiện trong đoạn trích: nhân vật Bá Kiến, mấy bà vợ của Bá Kiến, dân làng và nhân vật Chí Phèo.

Bá Kiến nói với một người nghe duy nhất trong trường hợp nói với Chí Phèo. Còn lại, khi nói với mấy bà vợ, hay dân làng, với Lí Cường, Bá Kiến nói cho nhiều người nghe (trong đó bao gồm cả Chí Phèo).

b) Vị thế trong xã hội của Bá Kiến khi so sánh với mỗi người nghe như thế nào? Điều này chi phối tới cách nói và lời nói của nhân vật Bá Kiến ra sao?

Vị thế xã hội của Bá Kiến đối với từng người nghe:

+ Với mấy bà vợ thì Bá Kiến có vai trò là chồng (chủ gia đình) nên được "quát".

+ Với dân làng thì Bá Kiến là cụ lớn, thuộc tầng lớp cao nên lời nói có phần tôn trọng (các ông, các bà) nhưng thực chất thì đuổi (về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?).

+ Với Chí Phèo thì Bá Kiến vừa có vai trò là ông chủ cũ, vừa là kẻ đã chính tay đẩy Chí Phèo vào tù, kẻ mà lúc bấy giờ Chí Phèo đến để "ăn vạ". Bá Kiến vừa phải thăm dò, vừa phải dỗ dành, lại vừa có vẻ đề cao và coi trọng.

+ Với Lí Cường thì Bá Kiến là người cha, cụ quát con mình nhưng thực chất là để xoa dịu cho nhân vật Chí Phèo.

c) Đối với Chí Phèo thì Bá Kiến đã thực hiện chiến lược giao tiếp với mình như thế nào? Hãy phân tích chi tiết chiến lược đó theo những bước dưới đây:

- Bá Kiến đuổi tất cả mọi người về, chỉ đối thoại với riêng Chí Phèo

+ Nói với mấy bà vợ: Các bà đi vào nhà, đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì! 

+ Rồi quay sang đám người làng với giọng dịu hơn một chút “cả các ông, các bà nữa, về thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?”

=> Mục đích của câu nói này là để đuổi khéo mọi người, để cô lập Chí Phèo cho dễ dàng nói chuyện và đối phó được với Chí Phèo dễ dàng hơn.

- Bá Kiến giảm cơn tức giận của nhân vật Chí Phèo bằng cả hành động lẫn lời nói.

+ Bá Kiến đã hạ nhiệt cơn giận của Chí Phèo bằng những lời lẽ ngọt ngào cùng cách xưng hô tâng bốc: Anh Chí ơi! 

+ Rồi xưng hô thân mật: cái anh này, tiếp đến là cách nói như xưng hô với người trong nhà bằng ngôi thứ nhất số nhiều: ta (để phân biệt rő ràng với người ngoài). Bên cạnh cách xưng hô như vậy là những lời nói vô cùng nhẹ nhàng, đầy khích lệ và động viên cùng với hành động thân thiết như người quen thân lâu ngày rồi mới gặp.

=> Bá Kiến đã nâng vị thế của Chí Phèo lên ngang hàng với mình và nhận Chí Phèo là người họ hàng. Cách nâng vị thế trong giao tiếp làm cho Chí Phèo cảm thấy hãnh diện vì được ngang hàng với một gia đình danh giá trong làng, chẳng mấy chốc mà hắn quên đi ý định ban đầu.

-  Đòn cuối cùng chính là Bá Kiến đã mắng Lí Cường với một giọng điệu đắc thắng để tôn Chí Phèo lên và Bá Kiến đã đạt được mục đích dập tắt đi ngọn lửa căm thù bên trong Chí Phèo, bóp chết ý định trả thù của Chí Phèo khi còn trong trứng nước.

d) Với chiến lược giao tiếp như phái trên thì Bá Kiến đạt đươc mục đích và hiệu quả giao tiếp hay không? Những người nghe trong cuộc hội thoại ấy với Bá Kiến có phản ứng ra sao khi nghe được những lời nói của Bá Kiến?

Bá Kiến đã đạt được mục đích cũng như hiệu quả giao tiếp:

Những người nghe trong đoạn hội thoại đều nghe răm rắp theo Bá Kiến.

Chí Phèo khi đến thì hung hãn nhưng cuối cùng cũng bị làm cho khuất phục, thấy lòng mình nguôi nguôi 

2. Soạn bài nhân vật giao tiếp: Hướng dẫn luyện tập 

2.1 Bài 1: SGK Ngữ văn 12/2 trang 21

Đề bài: Phân tích sự chi phối của vị thế trong xã hội ở những nhân vật đối với lời nói của họ trong đoạn trích dưới đây:

Anh Mịch nhăn nhó, nói: 

-Lạy ông, ông làm phúc cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông nghị, kẻo ông ấy đánh chết.

Ông lí cau mặt lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa: 

-Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.

-Cắn cỏ, con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông nghị ghét co, cả nhà con khổ.

-Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy không được à?

- Đối với ông nghị con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không vợ con con chết đói.

- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Đứa nào không tuân để quan gắt, tao trình thì rũ tù.

-Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.

-Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao. Hôm ấy mà mày không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.

                                                                                                                            (Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)

Hai nhân vật đang giao tiếp trong đoạn trích phía trên là anh Mịch - một người nông dân nghèo khổ cùng với lí trưởng - người có chức chức có quyền ở trong làng. Vì vị thế xã hội có sự chênh lệch và vị thế xã hội đó đã chi phối các nhân vật thể hiện ở mọi cử chỉ và hành động. 

Vị thế xã hội:

  • Anh Mịch - kẻ bên dưới người bị bắt phải đi xem đá bóng

  • Lí trưởng - kẻ bề trên là người thừa lệnh quan bắt người phải đi xem đá bóng

Chính vị thế như thế cũng chi phối hai nhân vật trong từng cử chỉ, lời nói và cả hành động: Anh Mịch thì giọng nói thể hiện sự nài nỉ, van xin và nhún nhường (con lạy ông, van ông, cắn cỏ con lạy ông,..); trong khi đó ông lí thì lại vô cùng hách dịch, quát mắng (xưng hô mày tao, sử dụng câu lệnh,..) 

2.2 Bài 2: SGK Ngữ văn 12/2 trang 21

Phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế trong xã hội, giới tính văn hóa, nghề nghiệp, ... của những nhân vật giao tiếp với đặc điểm thể hiện trong lời nói của họ ở đoạn trích dưới đây:

Bỗng dưng tất cả dừng lại, dưới cây đũa thần, hay đúng hơn dưới ngọn roi gân bò mà viên đội sếp Tây vừa vung lên, vừa quát tháo:" cái giống tởm nhà mày! có cút đi không cái giống tởm!". Thế là cái đám đông lúc nhúc đứng sắp hàng, vừa yên lại vừa lặng, hai bên lề đường.Gì thế nhỉ? xe ô tô quan Toàn quyền sắp đi qua đấy...Xe kia rồi! Lại cả ông Toàn quyền đây rồi!

- Quan có cái mũ hai sừng trên chóp sọ! - Một chú bé con thì thầm.

-Ồ! Cái áo dài đẹp chửa! -- Một chị con gái lớn thốt ra.

- Ngài sắp diễn thuyết đấy!- Một anh sinh viên kêu lên

-Đôi bắp chân ngài bọc ủng- Một bác cu-li xe thở dài.

-Rậm râu, sâu mắt - Một nhà nho lẩm bẩm

Thế là ô tô ông Va-ren chạy qua giữa hai hàng rào con người, lưng khom lại khi ngài đến gần. 

(Nguyễn Aí Quốc, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu)

+ Viên đội sếp Tây: vị thế trong xã hội là người có quyền có thế, nghề nghiệp là cảnh sát, giới tính nam, văn hóa kém cỏi vì những lời thoại vô cùng hống hách lại có thái độ phân biệt chủng tộc.

+ Nhân vật đám đông: vị thế trong xã hội thấp kém, văn hóa cũng thấp nên những lời thoại đều mang tính hiếu kì.

+ Chú bé con vẫn còn ngây thơ nên chỉ chú ý tới chi tiết lạ mắt của viên Toàn quyền và cũng chỉ xem xét đối tượng ở bên ngoài.

+ Chị con gái, ở tuổi hồn nhiên, yêu thích làm đẹp nên chỉ quan tâm tới những bộ trang phục.

+ Anh sinh viên là nhân vật có trình độ văn hóa, quan tâm tới những hoạt động trong xã hội và chính trị nên suy nghĩ về việc làm của viên Toàn quyền.

+ Bác cu-li xe vô cùng vất vả với nghề nghiệp của mình, văn hóa ở mức thấp nên nhìn những đối tượng có liên quan tới chuyện làm ra miếng cơm manh áo của mình.

+ Nhà nho học vấn uyên thâm nên lại có cái nhìn vô cùng sâu sắc: nhìn bên ngoài có thể đánh giá được bản chất bên trong của đối tượng đó.
Như vậy: Lời thoại của những nhân vật giao tiếp thường phản ánh đúng trình độ học vấn, văn hóa, cũng như lứa tuổi, giới tính và nghề nghiệp của nhân vật ấy.

2.3 Bài 3: SGK Ngữ văn 12/2 trang 22 

Đọc đoạn trích phía dưới và trả lời những câu hỏi được nêu ở dưới đây:

Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang: 

- Bác trai đã khá rồi chứ?

- Cảm ơn cụ nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý vẫn còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.

- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Cứ nằm đấy, chốc nữa họ lại vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm rề rề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn. 

- Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì.

- Thế phải giục anh ấy ăn mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy!

Rồi bà lão lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn) 

a) Nhân vật bà lão và nhân vật chị Dậu có vị thế xã hội và quan hệ với nhau như thế nào? Điều đó đã chi phối tới lời nói của cả hai nhân vật này ra sao? 

Quan hệ giữa nhân vật bà lão hàng xóm và nhân vật chị Dậu là quan hệ hàng xóm láng giềng thân thiết với nhau.

Điều đó đã chi phối tới lời nói và cách nói của 2 người một cách thân mật:

Bà lão: bác trai, anh ấy, ...

Chị Dậu: cảm ơn, nhà cháu, cụ, ...

b) Phân tích quá trình tương tác về hành động nói giữa lượt lời của hai nhân vật tham gia giao tiếp trong đoạn trích trên.

Sự tương tác về hành động và ngôn ngữ giữa các lượt lời của 2 nhân vật này:

Hỏi thăm - cảm ơn

Đề nghị - lĩnh hội

Đề nghị - (đồng ý)

c) Lời nói và cách nói của hai nhân vật đó cho thấy được tính cách cũng như cách ứng xử của hai người có những nét văn hóa đáng tôn trọng ra sao?

Đoạn hội thoại cho thấy rằng cách ứng xử của cả hai nhân vật tuy thân mật nhưng không suồng sã do tính chất quan trọng của nội dung đề tài và nhân vật Chị Dậu khi nói chuyện với người bề trên (người hơn tuổi) thì phải lễ phép. Văn hóa ứng xử ấy vô cùng đẹp, đáng tôn trọng. Họ là những người nông dân rất giàu tình cảm và vô cùng trách nhiệm.

 

Khi nhắc đến những đoạn đối thoại, hội thoại trong giao tiếp không thể không nhắc tới nhân vật giao tiếp. Đây là kiến thức quan trong mà mỗi em học sinh đều phải nắm được để có thể áp dụng được không chỉ trong bài thi mà còn áp dụng được trong đời sống. Vì vậy, VUIHOC đã giúp các em tìm hiểu dễ dàng kiến thức này thông qua việc hướng dẫn soạn bài nhân vật giao tiếp và các bạn tham khảo Soạn Văn 12 khác. Các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học cùng các thầy cô VUIHOC để có thêm kiến thức về môn văn nói riêng và các môn học khác nói chung nhé!

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-nhan-vat-giao-tiep-1880.html

Tovább

Soan bai nghi luan van hoc

Nghị luận văn học là dạng bài thi rất quan trọng và luôn có mặt trong các kỳ thi học sinh giỏi và THPT Quốc gia môn Ngữ Văn. Bài viết này sẽ giúp các em ôn tập lại kiến thức về nghị luận văn học để các em nắm được những yêu cầu và thao tác trong khi làm bài. Từ đó, hướng dẫn chi tiết cách soạn bài Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học thông qua một số đề có sẵn.

1. Ôn tập kiến thức nghị luận văn học 

- Khái niệm: Văn nghị luận là một thể loại văn được viết với mục đích xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Văn nghị luận cần phải chứa những luận điểm rő ràng, có những dẫn chứng và lí lẽ thuyết phục được người đọc, người nghe. Những tư tưởng và quan điểm trong bài văn nghị luận phải được xây dựng để hướng tới cách giải quyết những vấn đề được đặt ra và tồn tại trong cuộc sống, xã hội, như vậy mới có ý nghĩa.

- Những yêu cầu cần đáp ứng khi làm văn nghị luận: Phải viết đúng hướng, theo một trật tự nhất định, phải mạch lạc, trong sáng và sống động, có tính sáng tạo sẽ làm bài văn càng trở nên hấp dẫn. 

- Những thao tác chính trong bài văn nghị luận bao gồm: giải thích, bình luận, chứng minh, bác bỏ, phân tích, so sánh,… 

- Khi làm một bài văn nghị luận văn học thì cần phải lưu ý đến những yêu cầu sau đây:  

  • Phải nắm chắc được cách sử dụng của các thao tác nghị luận về một đoạn trích, đoạn thơ, bài thơ và tác phẩm văn xuôi. 

  • Cần củng cố lại những kiến thức cơ bản trong mỗi tác phẩm văn học như: tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, giá trị về nội dung, giá trị về nghệ thuật và giá trị về tư tưởng.  

  • Đối với thơ thì ta cần lưu ý đến mặt hình thức thể hiện (như hình ảnh, cấu trúc, nhịp điệu, biện pháp tu từ,..). 

  • Đối với các tác phẩm văn xuôi: cần phải chú ý đến phần cốt truyện, các tuyến nhân vật, tình huống, các dẫn chứng cần thật sự chính xác, làm nổi bật lên giá trị về hiện thực, giá trị về nhân đạo, tình tiết trong truyện

 

2. Hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học

2.1 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 1

Đề bài: Trong một bức thư luận bàn về chủ đề văn chương, Nguyễn Văn Siêu đã viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy đưa ra những nhận xét và phát biểu về quan niệm trên.

Bài làm cần có những nội dung dưới đây:

- Phân tích, giải nghĩa hai loại văn chương: "chuyên chú ở văn chương" và loại "chuyên chú ở con người".

   + Thế nào được gọi là văn chương "chuyên chú ở văn chương"?

Đó là một loại văn chương chỉ biết đến nó, tức là coi mọi hình thức về mặt nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác cũng chỉ chăm lo tới cái đẹp hình thức mà không mấy quan tâm đến nội dung tư tưởng và không bận tâm đến đời sống và vận mệnh của con người, không có ý thức, trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội.

   + Thế nào được gọi là văn chương "chuyên chú ở con người"?

Đó là một loại văn chương được quan tâm ưu tiên đến cuộc sống của con người và vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương nằm ở chỗ mà nó tạo lợi ích cho cuộc đời.

- Nêu quan điểm của bản thân về quan niệm của Nguyễn Văn siêu:

 + Vì sao loại văn chương đáng thờ lại là loại "Chuyên chú ở con người" chứ không phải là loại "Chuyên chú ở văn chương"?

Nguyễn Văn Siêu muốn thể hiện giá trị cao đẹp của văn chương. Nếu văn chương mà không quan tâm đến khía cạnh con người thì văn chương đã tự đánh mất giá trị của mình. Áng văn hay phải gọi là áng văn tâm huyết của con người cầm bút. Cái tâm sẽ thường nuôi dưỡng và làm phát huy cái tài.

- Liên hệ tới những nhà văn cũng có quan điểm giống như Nguyễn Văn Siêu.

Gợi ý:

Mỗi người nghệ sĩ đều theo phong cách nghệ thuật cá tính sáng tạo cùng tư tưởng thẩm mĩ riêng mà có những quan điểm riêng trong văn chương. Có người nghĩ rằng văn chương không phải được nhào nặn từ người thợ khéo tay thực hiện dựa trên một số kiểu mẫu được đưa cho, mà văn chương phải là sự khởi nguồn chưa một ai từng làm và sáng tạo ra những gì chưa có trước đấy. Có người lại nghĩ rằng văn chương phải là sự thoát li nhưng cũng có những người nghĩ rằng văn chương phải là những sự việc có thật ở đời, phải là những sự đau khổ bộc lộ ra từ kiếp lầm than. Với Nguyễn Văn Siêu, ông cho rằng “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Nguyễn Văn Siêu đã bày tỏ quan niệm của mình với văn chương. Theo ông thì văn chương được chia thành hai loại là văn chương không đáng thờ và văn chương đáng thờ. Văn chương không đáng thờ theo Nguyễn Văn Siêu là loại văn chỉ chuyên chú ở văn chương, còn văn chương đáng thờ với ông là loại chuyên chú ở con người.

Vậy chúng ta sẽ hiểu thế nào về văn chương mà chỉ chuyên chú ở văn chương? Văn chương chuyên chú ở văn chương chính là loại văn chương chỉ tập trung vào hình thức mà không có nhiều ý nghĩa đối với con người. Những tác phẩm như thế giống như một bài hát thoạt đầu có vẻ dễ nghe và bắt tai nhưng những ngôn từ trong nó thì lại chẳng mang ý nghĩa gì, chỉ là một vài ba câu từ ghép lại hết sức đơn giản và tẻ nhạt. Sức mạnh của văn chương cũng đã được nhiều người khác khẳng định, Thạch Lam đã từng ví văn chương như “một thứ khí giới thanh cao mà đắc lực” nó giúp cho tâm hồn của con người được thanh lọc và cũng vạch trần những điều giả dối trong xã hội. Thế nhưng nếu văn chương không có sự chuyên chú ở con người thì đó không phải là văn chương thực thụ nữa. Vì văn chương cũng có chức năng về giáo dục và nhận thức mà mặt thẩm mỹ cũng rất quan trọng đối với con người.

Thực tế cho thấy, khi một xã hội phát triển đồng nghĩa với những câu chuyện ngắn trên mạng cũng được đăng tràn lan. Ở đó ta có thể bắt gặp rất nhiều những câu chuyện về chủ đề tình yêu, tình bạn hoặc tình cảm gia đình. Nhưng cách viết của những câu chuyện ấy chỉ chú trọng vào hình thức văn bản mà không quan tâm đến nội dung và ý nghĩa của nó. Vả lại trước khi sáng tác một tác phẩm hay làm bất cứ một việc gì thì việc đầu tiên chúng ta cần phải xác định chính là đối tượng mà tác phẩm ấy muốn đề cập tới là ai. Nếu không xác định được điều này thì một tác phẩm văn chương được viết ra sẽ chẳng dành cho ai, chẳng biết sẽ phù hợp với độ tuổi nào thì đó không phải là loại văn chương để con người cần tôn thờ.Thể loại văn chương như vậy chỉ dựa vào thị hiếu của con người, nó cực kỳ sáo rỗng.

Ngược lại chúng ta có thể ghi nhớ rằng văn chương đáng được tôn thờ chính là văn chương chuyên chú ở con người. Đó là những tác phẩm vừa có giá trị nghệ thuật lại vừa có giá trị nhân văn thật sự sâu sắc. Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định đúng đắn khi đưa ra một yêu cầu cho những tác phẩm văn chương chân chính đó phải là tiếng nói và hơi thở của cuộc sống đời thường, đặt ra nhiệm vụ cần phản ánh hiện thực vào văn chương. Yêu cầu đó đòi hỏi ở nhà văn một sự tinh tế, nhạy bén và cảm nhận từ các giác quan rất rő ràng để có thể nhập tâm vào cuộc sống với mục đích khám phá tìm tòi. Một tác phẩm ưu tú không đem đến cho người đọc “sự thoát li hay sự quên" mà nó đem tới cho người đọc một hơi thở nhịp đập trong chính cuộc đời để mang lại người đọc những "bài học trông nhìn và thưởng thức" (Theo dòng). "Tác phẩm văn nghệ phải thể hiện sự sống thật hơn là sự sống bình thường cô đọng hơn khái quát hơn cao hơn cuộc sống mà văn là cuộc sống" (Trường Chinh). Người nghệ sĩ cũng cần phải nhận thức và phản ánh được cuộc sống có lý tưởng chứ không phải mình họa cho lý tưởng của cuộc sống. Lý tưởng ở ngay trong cuộc sống chứ không thể tách rời khỏi cuộc sống sẽ khiến người ta phải thoát ly hay quên lãng.

Văn chương chân chính cũng không phải là một công thức sao chép nô lệ hiện thực mà cần thể hiện được sự sáng tạo độc đáo một cách nghiêm túc của người nghệ sĩ. Quá trình sáng tạo ấy là quá trình mà nhà văn gom góp, chắt chiu từng mảnh đời, từng số phận để thu nhận vào mình muôn hình vạn trạng của cuộc sống ngoài kia và trải nghiệm chúng. Chỉ có sự công phu và sáng tạo như thế thì tác phẩm văn chương mới mang lại những linh hồn của cuộc sống và bắt buộc người đọc phải hướng tới cuộc đời đó để tìm kiếm và khám phá say mê. Văn chương chân chính chắc chắn không phải là thứ văn chương dễ dãi để người đọc không hiểu gì. Trong nền văn học Việt Nam chúng ta có rất nhiều các tác phẩm văn chương đáng được tôn thờ vì nó luôn luôn chú trọng vào con người. Ví dụ như tác phẩm “Vợ Nhặt” của Kim Lân được xếp vào văn chương đáng tôn thờ bởi tác phẩm đã ca ngợi được vẻ đẹp về tình thương mến thương, lá lành đùm lá rách của dân tộc ta, nó sẽ luôn tỏa sáng kể cả với hoàn cảnh khó khăn nhất là nạn đói. Điều đó còn thể hiện lên vẻ đẹp của đất nước, sự tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc tốt đẹp, về tinh thần yêu nước và mối căm hận giặc, về tự tôn dân tộc và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong tác phẩm “Đất nước” của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Từ thời Nguyễn Trãi hay Nguyễn Du với những tác phẩm như Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều cho đến giai đoạn Hồ Chí Minh, Nam Cao, Tố Hữu… đều toả sáng bằng những áng văn chương đáng được tôn thờ đến ngàn đời.

Như vậy, có thể thấy rằng Nguyễn Văn Siêu thật sự tinh tế và mang đến những quan điểm đúng đắn về các thể loại văn chương. Để rồi, người đọc cũng như người viết biết cách sáng tạo thêm, lựa chọn ra những tác phẩm văn chương thực sự có ích, mang ý nghĩa nhất định, những tác phẩm văn chương đáng được tất cả các thế hệ tôn thờ. 

2.2 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 2

Đề bài: Nhà văn người Pháp nổi tiếng Buy- phông có viết :”phong cách chính là người”. Anh chị hiểu như thế nào về ý kiến đó?

Cần lưu ý những ý chính dưới đây:

- Phong cách chính là nét độc đáo nhất và cũng là đóng góp riêng của các nhà văn cho đời sống văn học.

- Phong cách bao gồm cả 2 khía cạnh nội dung và nghệ thuật:

   + Độc đáo trong nội dung thể hiện rő ở quan niệm về cuộc sống cũng như con người từ việc chọn ra đề tài, xác định được chủ đề, cách giải thích những vấn đề tồn tại trọng cuộc sống và con người ... .

   + Độc đáo trong nghệ thuật thể hiện rő ở phương thức biểu hiện, ở việc chọn lựa những thủ pháp nghệ thuật, tổ chức có kết cấu, cách sử dụng ngôn ngữ ... .

- Điều thích thú khi đọc một tác phẩm văn học là phát hiện ra những nét độc đáo trong phong cách của từng nhà văn.

Gợi ý:

Mỗi con người sinh ra không phải ai cũng giống hệt nhau, mỗi người đều sở hữu những nét khác biệt tạo nên cái riêng của bản thân mình và cái riêng đó thường được biết đến là phong cách. Như nhà văn người Pháp nổi tiếng Buy-phông có viết: "phong cách chính là người" 

Đúng như vậy! Phong cách chính là người, phong cách của mỗi người phản ánh đúng con người của họ. Vậy chúng ta có thể hiểu phong cách như thế nào? Theo nghĩa hẹp, phong cách được định nghĩa là cách thức riêng biệt của một tác giả, một người nghệ sĩ thể hiện trong sự sáng tạo của một tác phẩm, của một công trình văn hóa và nghệ thuật. Đó là những biểu hiện có tính chất hệ thống về tư tưởng trong nghệ thuật, các đặc trưng mang đến vẻ đẹp thẩm mỹ, ổn định về cả nội dung lẫn hình thức thể hiện để tạo nên giá trị độc đáo cho tác giả. Theo nghĩa rộng, phong cách chính là phong thái, là phong độ và phẩm chất đã trở nên ổn định của một người hoặc một tập thể được thể hiện rő nét trong tất cả những hoạt động sống của chủ thể, tạo được những giá trị riêng, những nét đặc trưng của họ. Phong cách được định nghĩa như một nguyên tắc giúp điều chỉnh hành vi của con người và trở thành một thói quen, nề nếp ổn định kể cả khi suy nghĩ, diễn đạt hay hoạt động thực tế. Đối với mỗi người thì phong cách lại có nét gần với đặc điểm về truyền thống, thói quen, hoặc hoàn cảnh sống quy định, đồng thời cũng mang dấu ấn cá nhân vô cùng rő ràng. Mỗi người, từ thời thơ ấu lớn lên đã mang trong mình một phong cách riêng. Phong cách nào thì cũng mang vẻ tự tin của chính mình. 

Trong cuộc sống hiện nay, chúng ta đã được nghe về rất nhiều phong cách, nào là phong cách sống, phong cách thời trang, phong cách nghệ thuật,...  Nói về khía cạnh thời trang, chúng ta cũng thường được nghe về việc nhận xét phong cách thời trang của một người chẳng hạn như phong cách cá tính, phong cách bánh bèo,.. Theo những lời nhận xét đó thì ta có thể thấy rằng, mỗi người hoặc một tập thể đều lựa chọn cho mình một phong cách thời trang riêng mà họ cảm thấy yêu thích và tự tin nhất khi mặc. Có người lựa chọn phong cách gợi cảm, có người lại thích theo đuổi phong cách dễ thương, có người lại chỉ thích phong cách thật mộc mạc, trong sáng… Không chỉ trong thời trang thường ngày mà ta còn thường bắt gặp phong cách của những người nghệ sĩ, như ca sĩ. Phong cách của từng ca sĩ được thể hiện trong những bài hát mà họ trình bày. Người ca sĩ hát nhạc trữ tình sẽ khác biệt với người hát nhạc rap hay nhạc cách mạng… Mỗi người ca sĩ ngoài gu thời trang, người ta còn nhớ tới họ theo đuổi một dòng nhạc như thế nào nữa. Mà chính những điều này tạo nên phong cách riêng cho một người ca sĩ.

Trong văn học cũng như vậy, phong cách của nhà văn được bộc lộ trên cả hai phương diện là nội dung và nghệ thuật. Trong nội dung, phong cách của nhà văn in đậm bởi những quan niệm về cuộc sống con người, việc chọn ra đề tài, xây dựng nên chủ đề, cách giải thích những vấn đề tồn tại trong cuộc sống con người… Có thể thấy được điều này ở rất nhiều nhà văn nổi tiếng như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Hồ Chí Minh… Nguyễn Tuân thường nhìn nhận mọi sự vật, sự việc dưới một góc độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn đã tìm thấy được sự tài hoa của những nhà Nho hết thời từ những thú vui tao nhã của họ: thả thơ, ngâm vịnh, uống trà,… Sau Cách mạng, nhà văn lại mê đắm vào sự tài hoa của những con người Việt Nam trong công cuộc lao động và sản xuất… Nam Cao lại mang phong cách khác. Trước Cách mạng, ông luôn viết đề tài về những người nông dân Việt Nam nô lệ bị bóc lột, tha hóa về cả tinh thần, nhân phẩm hay những nhà trí thức Việt Nam khổ sở trong nỗi đau khi bị “áo cơm ghì sát đất”… Về nghệ thuật, phong cách của nhà văn cũng được bộc lộ ở đa dạng các phương diện: phương thức biểu hiện, cách lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết cấu và tổ chức ngôn ngữ… Điều này cũng rất dễ phân biệt đặc biệt với những tác giả lớn.

Nhà thơ Tố Hữu thường chọn sáng tác bằng thể thơ lục bát, giọng điệu mang tâm tình ngọt ngào để thể hiện được tình cảm tha thiết và chân thành của nhân vật trữ tình. Nhà văn Nam Cao lại dễ “bị” nhận ra vì lối kể chuyện mang phong cách đảo trình tự tuyến tính hiện đại hay cách liên kết đoạn văn vô cùng tài tình… Mỗi nhà văn lại thể hiện những ý tưởng độc đáo khác nhau trong việc thể hiện các tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi đã đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ… không gì thú vị hơn việc phát hiện ra được những nét đặc sắc trong phong cách của từng tác giả. Những nhà văn, nhà thơ tài ba thực sự mới có thể định hình được phong cách riêng cho mình. Và giữa phong cách của từng tác giả lại có một mối quan hệ chặt chẽ tới bản cá tính của mỗi nhà văn.

Trong văn học, phong cách được bộc lộ sinh động như một thực thể thể hiện được những quan niệm cá nhân trong văn học. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao luôn thể hiện vẻ khách quan, hờ hững với các nhân vật. Ông gọi họ bằng những từ như “y”, “thị”, miêu tả họ với những hình dáng xấu xí, thậm chí là có phần ghê rợn (đặc biệt là hình ảnh những người nông dân). Nhưng phía sau những trang văn lạnh lẽo, miệt thị ấy lại là tấm lòng đồng cảm thấu suốt là tình yêu thương đến nhói buốt của một tâm hồn đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao cũng mang dáng vẻ giống như giọng điệu văn chương của ông thể hiện trong truyện ngắn. Nhắc tới Nam Cao, những người bạn văn nghĩ đến một dáng vẻ vô cùng trầm lặng, ít nói, nhưng thực ra, ẩn sau dáng vẻ phẳng lặng và im ắng ấy là một tinh thần rất sôi nổi và quyết liệt. Chỉ với tính cách mạnh mẽ mới có thể phát biểu rằng: “Sống đã rồi hãy viết”! Phong cách của nhà văn thể hiện rő nét trên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của từng tác giả lại hằn sâu vào lòng người đọc tạo thành mối đồng cảm sâu sắc giữa các nhà văn, nhà thơ với những độc giả chân thành.

Tất cả những phong cách trong các lĩnh vực ấy, khía cạnh về đời sống con người đều thê hiện một điều rằng, phong cách chính là con người. Phong cách đã phản ánh một con người, nó tạo nên sự riêng biệt của con người với nhau, tạo nên sự đa dạng trong cuộc sống. Điều đó một lần nữa khẳng định lại ý kiến của nhà văn người Pháp Buy -phông là chính xác và có ý nghĩa. 

2.3 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 3

Đề bài: Anh chị hãy thể hiện quan điểm của bản thân về ý kiến của nhà văn người Pháp La Bơ-ruy –e:” Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một người nghệ sĩ viết ra"

Cần làm nổi bật một số ý chính sau:

- Tiêu chí dựa vào để đánh giá một tác phẩm hay, theo nhà văn La Bơ-ruy-e chính là giá trị giáo dục của tác phẩm ấy.

- Giá trị giáo dục của một tác phẩm văn học: "Nâng cao tinh thần", gợi: "Những tình cảm cao quý và can đảm" của con người.

Gợi ý:

Có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau khi bàn về cách nhận xét giá trị của văn chương. Có người chú trọng về mặt nghệ thuật, có người chú trọng về mặt nội dung. Nhà văn người Pháp La Bơ-ruy-e cũng đã mang đến một cách đánh giá về giá trị của tác phẩm văn học của mình. Ông viết " Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và cân đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay do một nghệ sĩ viết ra" 

Đúng như vậy!  Nhà văn La Bơ-ruy-e đã bày tỏ quan điểm về cách đánh giá một tác phẩm văn chương và như thế nào là một nghệ sĩ chân chính. Theo ông, tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tinh thần của con người theo hướng tích cực chính là một cuốn sách hay, chính xác là văn chương và người viết ra nó xứng đáng được gọi bằng nghệ sĩ. Câu nói của nhà văn Pháp La bơ-ruy-e mang ý khẳng định giá trị của một tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học được viết ra sẽ có nhiều người đọc thưởng thức những không phải ai cũng thấy được cái hay trong tác phẩm này vì mỗi người cũng có những sở thích khác nhau. Bỏ qua nguyên tắc đánh giá một tác phẩm có được coi là giá trị hay không, chúng ta chỉ cần thấy rằng tác phẩm đó khiến cho tinh thần của ta được nâng cao và khơi gợi cho ta những tình cảm cao quý thì nó chính là một tác phẩm có giá trị do một người nghệ sĩ tài ba sáng tác. Bởi khi ấy, nó mang giá trị về mặt tinh thần vô cùng lớn đối với ta rồi.

Văn học đến với mỗi người dựa vào tình cảm và cảm xúc. Nó mang đến cho con người những rung động sâu xa trước vẻ đẹp của quê hương, của đất nước, trước cuộc sống vô cùng phong phú, đa dạng muôn hình vạn trạng và nhất là trước độ sâu của thế giới tâm hồn. Mục đích trước tiên và quan trọng nhất của văn học chính là giúp con người đối chiếu, liên tưởng và suy nghĩ về cuộc đời và về chính bản thân mình, nâng cao niềm tin với bản thân để từ đó rút ra được nhận thức đúng đắn hơn, có khát khao hướng tới chân lí, dám đấu tranh để chống lại cái xấu, cái ác; biết tìm tòi và hướng đến những cái Đẹp, cái Thiện trong cuộc sống. Đó chính là văn học chân chính, nó mới có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa và xứng đáng là tri kỉ của con người. Tư tưởng này của ông cũng gần giống với tư tưởng của hai nhà văn, nhà hiện thực văn học lớn ở Việt Nam là tác giả Thạch Lam và tác giả Nam Cao. Thạch Lam cho rằng văn chương không phải cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; mà trái lại, văn chương là một thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể sở hữu, để tố cáo và làm thay đổi một cái thế giới giả dối và độc ác, vừa làm cho lòng người thêm phần trong sạch và phong phú hơn. Còn với Nam Cao, ông đã thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” để bộc lộ quan điểm của bản thân về tác phẩm văn chương cũng như về nhà văn chân chính. Là một nhà văn, Hộ cũng từng ấp ủ hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương của bản thân. Anh mong muốn sẽ sáng tác ra những tác phẩm thật sự có giá trị, vượt lên trên tất cả bờ cői và giới hạn. Quan điểm về văn chương của Hộ cũng vô cùng tiến bộ: Một tác phẩm văn chương đích thực cần phải chứa được một cái gì đó thực sự lớn lao, mạnh mẽ lại vừa đau đớn nhưng lại phấn khởi. Nó ca tụng lòng yêu thương, tình nhân ái, sự công bằng… Nó làm cho con người lại gần nhau hơn. Nhà văn phải là những người nghệ sĩ vừa mang trong mình cái tâm lại vừa có cái tài, trong sáng tác phải xây dựng cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn riêng biệt không thể lẫn với bất cứ người nào khác; vì: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao).

Chúng ta có thể nhận thấy rằng có những tác phẩm được coi là tác phẩm kinh điển, hay những tác phẩm mang đến giá trị về nội dung và nghệ thuật to lớn- những tác phẩm ấy không viết về những chủ đề cao siêu, mà chỉ đơn giản viết về những cái giản đơn, thân thuộc và gần gũi nhất với con người. Bởi những thứ đó, nó gắn bó với cuộc sống của từng người, khiến người đọc cảm nhận được mình xuất hiện trong chính tác phẩm ấy, thấy tiếng lòng được nói ra. Ví dụ như tác phẩm “Hai đứa trẻ” của tác giả Thạch Lam ngày nào cũng ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm. Hay tác phẩm “Vợ nhặt” của tác giả Kim Lân kể về anh cu Tràng nhặt được vợ trong một ngày đói, rồi tác phẩm “Chí Phèo”, “Đời thừa” của tác giả Nam Cao. Bên cạnh đó, cũng có vô số tác phẩm văn học thế giới kinh điển đã chứng minh điều này ví dụ như bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của Vích-to Huy-gô là một bài ca tuyệt vời thể hiện tình thương yêu của con người, về đức vị tha và sự hi sinh đến quên bản thân. Nhân vật Giăng Van-giăng chính là “nhân vật tư tưởng” tiêu biểu thể hiện sự nhân đạo của nhà văn. Người thợ làm vườn nghèo khổ ấy vì thương đàn cháu trong hoàn cảnh mồ côi nheo nhóc, đói khát đã liều mình đập vỡ cửa kính của tiệm bán bánh mì để ăn cắp một ổ. Bị kết án khổ sai, Giăng Van-giăng cũng mấy lần tìm cách để vượt ngục nhưng không thành công nên thời gian ngồi tù lại càng kéo dài ra mãi. Sau khi được tự do, vì hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo, Giăng Van-giăng lại tiếp tục phạm tội cướp đồng xu của một đứa bé và ăn cắp bộ đồ ăn làm bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự độ lượng và lòng bác ái của vị giám mục nhân từ đó đã cứu Giăng Van-giăng thoát khỏi vòng lao lý và nó tác động to lớn đến tư tưởng và tình cảm của con người tội nghiệp này. Nó đóng vai trò quyết định trong sự thay đổi cuộc sống và trong tính cách của nhân vật Giăng Van-giăng...

Như vậy, ý kiến của nhà văn người Pháp La Bơ -ruy -e hoàn toàn chính xác, góp phần trong việc khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của chức năng giáo dục trong văn chương và cũng nêu lên được cách đánh giá đúng đắn về tài năng của những người nghệ sĩ. Văn chương đem đến cho con người ta những giá trị tinh thần vô cùng cao quý, giúp con người hướng tới những nét đẹp Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống. Những tác phẩm văn học mang giá trị về nội dung và tư tưởng ; giá trị nghệ thuật cao sẽ vượt qua được những thử thách khắc nghiệt từ dư luận, của thời gian, không gian để ghi tên mình vào kiệt tác muôn đời của nhân loại. Đúng như nhà văn La Bơ-ruy-e khẳng định: …đó là một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.

Nắm chắc những kiến thức về khái niệm, yêu cầu và thao tác trong văn nghị luận sẽ giúp các em có thể đạt điểm tối đa ở câu có dạng văn này. Bởi vậy, việc ôn tập lại kiến thức và tham khảo các cách viết bài nghị luận văn học là vô cùng cần thiết đối với môn Ngữ Văn. Chính vì thế, bài viết phía trên sẽ hướng dẫn cho các em cách soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học. Để nắm được những kiến thức bổ ích và các bài tham khảo Soạn văn 12 học kỳ 2 cũng như các môn học khác, các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học cùng các thầy cô VUIHOC ngay nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-viet-bai-lam-van-so-5-nghi-luan-van-hoc-1879.html

 

 

Tovább

Soan bai vo chong a phu

Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm quan trọng trong chương trình Ngữ văn 12. Nhằm hỗ trợ các em có sự chuẩn bị tốt nhất cho bài học trước khi đến lớp, VUIHOC xin đưa ra gợi ý soạn bài Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài chi tiết và dễ hiểu nhất. Bài soạn sẽ giúp các bạn học sinh dễ dàng nắm bắt và tiếp cận kiến thức bài học. Cùng VUIHOC tìm hiểu nhé!

1. Soạn bài Vợ chồng A Phủ phần tác giả 

1.1 Cuộc đời 

- Tô Hoài (1920 - 2014), tên thật của ông là Nguyễn Sen.

- Ông sinh ra tại quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ.

- Ông sinh sống và lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

1.2 Thành tựu văn học 

- Tô Hoài viết văn từ trước Cách mạng, nổi tiếng với truyện đồng thoại Dế mèn phiêu lưu ký. Tô Hoài là một nhà văn lớn sáng tác nhiều thể loại. Tô Hoài sáng tác rất nhiều tác phẩm mang lại nhiều giá trị to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Năm 1996, Tô Hoài được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Lối viết hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ giàu có, bình dân, thông tục nhưng rất cuốn hút người đọc đặc biệt ở vốn hiểu biết sâu rộng về tập quán nhiều vùng khác nhau. Sở trường của ông là viết về loại truyện phong tục và hồi kí. Các tác phẩm tiêu biểu phải kể đến như: Dế mèn phiêu lưu ký (truyện,1941), Nhà nghèo (truyện ngắn,1944), Chiều chiều (tự truyện,1999),..

 

2. Soạn bài Vợ chồng A Phủ phần tác phẩm 

2.1 Xuất xứ

- “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953). Tập truyện được trao giải Nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955.

2.2 Hoàn cảnh sáng tác 

- Tác phẩm được viết vào năm 1952 là kết quả của những chuyến đi thực tế cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc của tác giả năm 1952. Trong chuyến đi này, ông có cơ hội, điều kiện tiếp xúc với nhiều đồng bào Tây Bắc và cuộc sống của đồng bào nơi đây đã khơi nguồn cảm hứng cho ông.

2.3 Bố cục 

Gồm ba phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “Đến bao giờ chết thì thôi” kể về hoàn cảnh sống của nhân vật Mị.

  • Phần 2. Tiếp theo đến .. "đánh nhau ở Hồng Ngài" kể về cuộc đời của A Phủ.

  • Phần 3. Phần còn lại kể về cuộc gặp gỡ và hành trình giải thoát của Mị và A Phủ.

2.4 Ý nghĩa nhan đề 

– Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành quả của những chuyến đi thực tế cùng các cán bộ lên giải phóng Tây Bắc của tác giả năm 1952, nhà văn có điều kiện được tiếp xúc trực tiếp với đời sống thường ngày của đồng bào miền núi Tây Bắc.

– Tô Hoài đặt nhan đề cho tác phẩm súc tích, ngắn gọn mà mang nhiều ý nghĩa. “Vợ chồng A Phủ” – tên nhan đề đã làm nổi bật lên hai nhân vật trung tâm được đề cập trong tác phẩm đó là: A Phủ và Mị.

–Ở đây tác giả Tô Hoài cũng muốn nhấn mạnh,làm rő mối quan hệ của hai nhân vật trung tâm của tác phẩm là quan hệ “vợ chồng” thay vì đặt cái tên khác như “A Phủ và Mị”. Hai con người xa lạ vốn chẳng quen biết nhau A Phủ và Mị lại tình cờ gặp nhau trong hoàn cảnh khốn cùng, khổ sở. Đó là cùng vì món nợ với nhà thống lí Pá Trá lúc đó Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lý, còn A Phủ vì đánh A Sử – con trai thống lý mà phải nộp tiền theo lệ làng, vì không có đủ tiền nộp nên trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí.

- Sự xuất hiện của A Phủ vào những ngày tháng khốn khổ, cùng cực của Mị tại nhà thống lý Pá Tra dường như đã xoa dịu tâm hồn của Mị vốn đã lạnh lẽo và vô cảm từ lâu, Mị cảm nhận được sự đồng cảm nơi tâm hồn nhau bởi họ là cùng là người chung cảnh ngộ như nhau. Chính vì lẽ đó, Mị giác ngộ được lẽ sống và quyết định tìm cách giải thoát cho bản thân mình cũng như A Phủ bằng hành động quyết định cắt dây cởi trói cứu A Phủ - bước đầu tự giải cứu bản thân. 

- Chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, khỏi ách thống trị của Thống lí Pá Tra để đến Phiềng Sa, nơi họ thấy được ánh sáng của cách mạng. Quá trình họ gặp gỡ, nương tựa vào nhau, kết nối với nhau và trở thành vợ chồng cũng chính là quá trình họ bước ra từ bóng tối tìm đến ánh sáng đến sự tự do. Cuộc đời của vợ chồng A Phủ hoàn toàn sang trang mới khi gặp được lý tưởng cao cả của cách mạng. Nhà văn Tô Hoài viết lên tác phẩm này nhằm phản ánh số phận đau thương, cùng cực và con đường tìm đến tự do của con người nơi đây. Qua nhan đề “Vợ chồng A Phủ”, người đọc cũng có thể cảm nhận được sức sống tiềm tàng cũng như khát vọng tự do của nhân dân vùng miền núi Tây Bắc.

2.5 Tóm tắt tác phẩm 

- Nội dung chính của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”

Mị khi đó là một cô gái xinh đẹp, mang trong mình bao khát vọng tự do, hạnh phúc lại bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Dù phản kháng đến mấy Mị cũng chỉ dần dần trở nên tê liệt,trở thành nô lệ, ngày ngày “lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói vào cột nhà. A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt vì đánh A Sử - con trai thống lí Pá Tra và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí. Không may hổ vồ mất một con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết. Nhưng đêm ấy, khi bắt gặp hai dòng nước mắt lấp lánh trên má A Phủ. Mị thương người, Mị nghĩ đến thân phận mình, Mị đã cắt dây trói của A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Mị và A Phủ gặp được A Châu, được giác ngộ, trở thành du kích, cùng nhau chiến đấu để bảo vệ bản làng. 

3. Giá trị của tác phẩm 

3.1 Giá trị hiện thực 

– Phản ánh chế độ thực dân phong kiến lạc hậu với những hủ tục, thần tục cổ hủ và cường quyền có sức mạnh đàn áp, chi phối cuộc đời của đồng bào dân tộc nơi đây.

– Số phận, cuộc đời bi thương, cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân ảnh hưởng tới đại bộ phận không nhỏ người lao động nghèo khó điển hình như nhân vật Mị,  A Phủ được tác giả xây dựng, khắc họa một cách chân thật, rő nét.

3.2 Giá trị nhân đạo 

– Lên tiếng phê phán, tố cáo xã hội thực dân phong kiến thời điểm bấy giờ đã dồn con người vào bước đường cùng, vùi dập biến họ trở thành con rối, tay sai, nô lệ để dễ bề cai trị.

– Diễn tả cảm xúc chung trong xuyên suốt tác phẩm sự cảm thông, đau xót của nhà văn trước cảnh con người chà đạp tới bước đường cùng không có chút sự tự do hay nhân quyền. Mị và A Phủ, nhân vật đại diện cho lớp người nghèo khổ dưới ách thống trị, họ phải sống cuộc đời của kẻ nô lệ, bị lệ thuộc, cuộc sống của tầng lớp dưới đáy của xã hội, thậm chí họ không được đối xử bằng con trâu, con ngựa, bị bóc lột một cách dã man, tàn bạo.

– Qua truyện ngắn, Tô Hoài với chủ đích muốn ngợi ca sức sống tiềm tàng, niềm tin vào ngày mai tươi sáng của con người ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Mị vẫn luôn muốn được đi chơi trong đêm tình mùa xuân, vẫn khát khao, mơ ước có hạnh phúc của bản thân mình, sự tự do, giải thoát khỏi ngục tù đen tối của cuộc đời mình. Dẫu bị bắt làm nô lệ, tay sai cho nhà Thống lí Pá Tra nhưng vẫn A Phủ không hề nhụt chí hay đánh mất sức sống mãnh liệt vốn có của mình. A Phủ vẫn sống một cách cuộc đời phóng khoáng, yêu đời, luôn khát vọng sống, khao khát tự do, mang trong mình những lí tưởng cao đẹp.

– Hành trình tìm đến với con đường giải thoát cuộc đời mình khỏi ngục tù tối tăm của hai nhân vật mà Tô Hoài đưa ra trong tác phẩm chính là con đường đi theo ánh sáng của cách mạng mà trong đoạn cuối của truyện ngắn, vợ chồng A Phủ đã chạy trốn tới Phiềng Sa, để bước theo ánh sáng của cách mạng, giải cứu cuộc đời tăm tối của họ.

3.3 Giá trị nghệ thuật 

– Nghệ thuật miêu tả cảnh sắc thiên nhiên , cảnh sinh hoạt hàng ngày với giọng văn mộc mạc, giản dị, gần gũi mang đậm màu sắc của vùng núi Tây Bắc 

– Ngòi bút xây dựng nhân vật tài tình của Tô Hoài đã khắc họa nhân vật một cách chân thực, sinh động, và vô cùng rő nét. Dù hai nhân vật chung hoàn cảnh, số phận nhưng tác giả vẫn làm nổi bật lên nét tính cách riêng biệt của họ.

– Lối trần thuật được sử dụng rất thành công với giọng kể suy tư có phần sâu lắng mang đầy sự cảm thông, yêu mến; nhịp kể chậm rãi, xúc động có khi hòa quyện vào dòng tâm trạng, suy tư của nhân vật lại bộc lộ nội tâm của nhân vật lại vừa tạo được sự đồng cảm.

– Ngôn ngữ giản dị, gần gũi được chọn lọc kỹ càng, sáng tạo giàu tính tạo hình lại vừa giàu chất thơ.

 

4. Hướng dẫn soạn bài Vợ chồng A Phủ 

Câu 1 (trang 14 SGK Ngữ văn 12 tập 1):

a. Cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, bị đày đọa tủi cực sống một cuộc sống khốn khổ  của nhân vật Mị:

- Dưới ách cai trị nhà Thống lí: Mị bị đày đọa, dồn vào bước đường cùng, ảnh hưởng cả về thể xác lẫn tinh thần

+ Lúc mới đầu: Đêm nào Mị cũng khóc => Sự đau khổ, nhen nhóm muốn phản kháng, đấu tranh cho bản thân nhưng lại vụt mất.

+ Lâu ngày sống trong cảnh khổ sở  Mị học cách làm quen và chấp nhận: 

Cuộc sống như con rùa lùi lũi ở xó cửa, làm việc quần quật từ sáng tới tối không bằng con trâu, con ngựa còn có lúc được nhai cỏ, còn Mị bị đánh đập, đối xử tệ bạc, man rợ bị trói đứng trong buồng.

Số phận bi đát, cuộc đời bị giam hãm của Mị là cái cửa sổ vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắng ở buồng Mị, trông ra không biết là sương hay nắng,và Mị nghĩ mình sẽ ngồi ở đó trông ra “cái cửa sổ đến hết cuộc đời” cho đến khi nào chết thì thôi.

=> Mị giam cầm cả về thể xác lẫn tâm hồn, cảm xúc vô cảm, dần bị chai sạn trước những đau khổ, mất hết ý thức về cuộc sống. Một cô gái xinh đẹp, ngoan hiền lại bị coi là nô lệ không công, là công cụ biết nói trong cái địa ngục trần gian ở Hồng Ngài - một số phận bi thảm của một con người bị áp bức dưới chế độ phong kiến khắc nghiệt và tàn bạo trên vùng cao

b. Diễn biến tâm trạng và hành động:

- Thiên nhiên Hồng Ngài khi vào xuân, cảnh chuẩn bị đón tết, tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân đánh thức tâm hồn Mị một sức sống tiềm ẩn.  Mị nghe tiếng sáo Mị bỗng thấy tâm hồn như phơi phới, Mị uống ực từng bát như uống cho hết nỗi nhục số phận, trong cơn say men rượu giúp Mị thoát khỏi cuộc sống lầm lũi để vươn tới những ý nghĩ về cuộc đời đẹp đẽ.

+ Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi với tay lấy chiếc váy hoa chải chuốt lại đầu tóc để đi chơi.

+ A Sử không cho Mị đi, buộc Mị vào cột giữa nhà cột cả tóc lên khiến Mị không thể cúi đầu được. 

- Trong đêm cắt dây trói để cứu A Phủ:

+ Mùa đông đến Mị thường dậy nửa đêm để hơ tay ấm cho đỡ lạnh

+ Khi ấy Mị bắt gặp A Phủ đang bị trói, ban đầu Mị thản nhiên, dửng dưng như không thấy gì vì đó là chuyện rất đỗi bình thường trong nhà thống lí. 

+ Nhưng đêm ấy, khi bắt gặp hai dòng nước mắt lấp lánh trên má A Phủ. Mị thương người, thương cho cả chính bản thân mình. Mị dứt khoát trong hành động cắt dây trói cứu A Phủ => Hành động cắt dây trói dây giải thoát cho A Phủ. Đó không phải là một hành động tự phát mà nó là kết quả của một quá trình bị chà đạp, dồn ép đến chân bước đường cùng, nó thể hiện sức sống tiềm ẩn trong con người của Mị.

+ Ngay sau đó, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao sự bứt rứt, giằng xé trong lòng Mị. Lúc đó khát vọng trỗi dậy thật mạnh mẽ, ý thức được kiếp sống tủi nhục , khắc khổ, Mị đã can đảm vượt qua và chạy trốn cùng A Phủ tới Phiềng Sa tìm thấy ánh sáng của cách mạng.

Câu 2 (trang 15 SGK Ngữ văn 12 tập 1):

a. Tính cách nhân vật A phủ

- Hoàn cảnh: A Phủ là mồ côi từ nhỏ vả lại còn rất nghèo nên không lấy được vợ. A Phủ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, được lòng rất nhiều con gái trong làng, có được A Phủ "cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà"

- Khi đánh nhau với A Sử: Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay to vào mặt A Sử, con quay văng giữa mặt, A Phủ đã tới, nắm cổ, kép dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp => sự khỏe khoắn, mạnh mẽ, sự căm thù của A Phủ đối với A Sử.

- Giữa những trận mưa đòn trong cuộc xử kiện: “im như cái tượng đá” mặc dù bị đánh đập dã man nhưng A Phủ không hề một tiếng kêu rên và  cuối cùng lại phải chịu đi ở gạt nợ cho thống lí => gan lì, nhẫn nhục, cam chịu.

- Khi làm công gạt nợ cho thống lí, A Phủ làm cái gì cũng phăng phăng, tháo vát mọi việc. Những vẫn là một A Phủ cứng cỏi, gan bướng ngay cả khi đánh mất bò, đối diễn với Pá Tra vẫn tự tin ở sức mình “Tôi về lấy súng thể nào cũng bắn được con hổ này to lắm”, “con hổ ấy còn nhiều tiền hơn con bò” => Chăm chỉ, chất phác, vô tư

b. Điểm nổi bật khi khắc họa hình tượng nhân vật Mị Và A Phủ:

- Nhân vật A Phủ được khắc họa chủ yếu qua ngoại hình, chuỗi hành động để làm nổi bật lên nét táo bạo, gan góc, tinh thần phản kháng của một chàng trai miền núi.

- Nhân vật Mị xây dựng thông qua tâm lí nhân vật. Cách tạo ra nghịch lú trong cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị. Kết hợp cùng cách dùng hình ảnh ẩn dụ độc đáo (căn buồng của Mị) gây cảm giác bức bối về nơi giam giữ, một hình tượng hóa giàu sức khái quát về ngục tù cuộc sống của Mị. 

Câu 3 (trang 15 SGK Ngữ văn 12 tập 1):

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động có cá tính đậm nét. 

- Biệt tài miêu tả thiên nhiên miền núi và phong tục tập quán của người miền núi với chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ (trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ... Đám trẻ con chơi quay cười ầm trước sân nhà)

- Nghệ thuật dẫn truyện tự nhiên, chân thực không kém phần sinh động, hấp dẫn với ngôn ngữ mang đậm màu sắc của người dân miền núi. Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, cách dẫn dắt khéo léo mà gây được ấn tượng.

 

5. Hướng dẫn luyện tập 

Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ:

- Cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ của người nông dân miền núi ấy, nhà văn đã miêu tả đầy khổ cực cuộc sống của Mị và A Phủ. Qua đây, ngợi ca vẻ đẹp và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân, đặc biệt là ca ngợi sức mạnh tiềm tàng mãnh liệt.

- Lên án, tố cáo tội ác của bọn phong kiến miền núi tàn bạo đã đẩy người dân vào bao nỗi đau khổ của người dân nghèo khổ.

- Đặt niềm tin mãnh liệt về tương lai, về sức sống kì diệu trong tâm hồn con người, con đường tươi sáng là tự giải phóng mình, tìm đến cách mạng và cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù để thay đổi cuộc đời của mình.

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết và đầy đủ nhất cách soạn bài Vợ chồng A Phủ của tác giả Tô Hoài thuộc chương trình Ngữ văn THPT. Hi vọng rằng có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức mà tác phẩm tuyệt vời này đem lại. Để học nhiều hơn các bài tham khảo Soạn văn 12 cũng như các kiến thức của các môn học thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-vo-chong-a-phu-ngu-van-12-1876.html

 

 

Tovább

Tổng hợp đầy đủ chương trình Văn 12

Chương trình Soạn bài Ngữ Văn 12 đầy đủ, chi tiết giúp bạn học nắm bắt được kiến thức, có thể học tốt môn Ngữ văn 12 và ôn thi THPT Quốc gia hiệu quả nhất

Cùng tìm hiểu thêm chi tiết tại: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-ngu-van-12-1727.html

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek