Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

Phân tích bài Những đứa con trong gia đình 

Új bejegyzés szövege

Những đứa con trong gia đình là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu được Nguyễn Thi viết về cuộc kháng chiến chống giặc Mỹ của nhân dân Nam Bộ. Cùng phân tích bài Những đứa con trong gia đình để cảm nhận được một bức tranh chân thực từ không khí đến tinh thần đấu tranh của nhân dân Việt Nam. VUIHOC đã tổng hợp sơ đồ tư duy, dàn ý cùng ba bài văn mẫu dưới đây.

1. Sơ đồ tư duy phân tích bài Những đứa con trong gia đình

Sơ đồ tư duy là một cách học rất được ưa chuộng với những bạn học sinh hiện nay. Nhưng để có thể lập được một sơ đồ tư duy đúng và hiệu quả nhất, hãy tham khảo mẫu sơ đồ tư duy phân tích bài Những đứa con trong gia đình dưới đây để nắm được cách tạp lập và có thể tự vẽ cho mình một chiếc sơ đồ tư duy như vậy giúp hỗ trợ việc học Ngữ Văn 12 

2. Dàn ý phân tích bài Những đứa con trong gia đình 

a) Mở bài

- Tác giả Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi đứng đầu trong nền văn học miền Nam, giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm của ông có thể phản ánh hiện thực khốc liệt của chiến trường Nam Bộ và vẻ đẹp của con người nơi đây.

- Những đứa con trong gia đình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Nam Bộ.

b)  Thân bài

Ý thứ nhất: Vẻ đẹp của dòng sông truyền thống gia đình

- Gia đình kiên cường chịu vô vàn đau thương trong chiến tranh: ông nội thì bị giặc giết, cha của Việt lại bị giặc chặt đầu, má thì bị trúng đạn của giặc Mỹ, thím Năm cũng bị giặc bắn chết. Đau thương làm nhen nhóm những ngọn lửa căm thù trong lòng mỗi thành viên.

  •  Vẻ đẹp của khúc sông phía trước

- Cha Chiến và Việt là cán bộ Việt Minh, tính cách vô cùng kiên cường, trung thành với cách mạng đến cùng và đã bị giặc giết hại.

- Má là một người phụ nữ rất mạnh mẽ và gan góc: dám đòi lại đầu chồng và đối đáp lại với bọn giặc Mỹ mà không hề có chút run sợ nào, biết nén nỗi đau thành lòng hận thù. Mặt khác bà cũng là một người phụ nữ vừa tháo vát, vừa yêu thương chồng con.

- Chú Năm là một người luôn lưu giữ được truyền thống gia đình (cuốn sổ), là người lao động chất phác với tâm hồn nghệ sĩ, hết lòng cho cách mạng (thu xếp để cả hai chị em đi tòng quân).

- Nhận xét: đây là một khúc sông thượng nguồn, là kết tinh của những vẻ đẹp truyền thống nhằm truyền lại cho khúc sông sau được phát huy.

  •  Vẻ đẹp của khúc sông phía sau

Nhân vật Chiến:

- Có những đặc điểm giống mẹ: mang các vóc dáng của má như “hai bắp tay tròn vo ... chắc nịch”, giống má từ cái lối nằm với thằng em út, biết lo liệu tất cả mọi việc một cách chu toàn (đặc biệt là trước đêm sắp đi xa nhà), Chiến tự cảm thấy mình như được hòa vào với má “Tao cũng đã lựa ý ... nên tao cũng tính vậy”

- Là một cô gái mới lớn nên lúc thì người lớn (nhường em, tháo vát, ...) nhưng có những khi vẫn rất trẻ con (vào trong chiến trường nhưng vẫn không quên mang gương nhỏ).

- Chiến cũng mang những nét khác biệt khi so với má: trẻ trung hơn, được tự tay cầm súng nhằm trả thù cho người thân.

- Là một cô gái kế thừa được sự kiên cường từ người thân trong gia đình: “nếu giặc còn thì tao mất”

Nhân vật Việt:

- Có những nét riêng của cậu con trai mới lớn: ngây thơ, hiếu động và trẻ con

+ Luôn luôn tranh giành phần hơn so với chị mình: giết giặc, đi bắt ếch, đi bộ đội, ...

+ Yêu thích những trò chơi hiếu động: câu cá, bắn chim, đi bộ đội vẫn mang ná thun, ...

+ Cái đêm trước khi lên đường đi bộ đội, Việt vẫn rất vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

+ Đối mặt với những lời trêu đùa của những anh trong đội thì chỉ biết “Giấu chị như giấu của riêng”. 

+ Khi bị thương ở mặt trận chiến trường Việt không hề sợ địch, cũng không sợ chết mà lại chỉ sợ rằng sẽ thành con ma cụt đầu, gặp lại anh em sẽ vừa khóc vừa cười tựa như một đứa trẻ “khóc đó rồi cười đó”.

- Việt cũng chính là một người chiến sĩ dũng cảm:

+ Từ khi còn bé đã dám xông vào đá bọn giặc giết cha mình.

+ Khi lớn lên thì tranh giành đi tòng quân cùng chị Chiến mặc dù bản thân vẫn chưa đủ tuổi. Trong quân ngũ Việt chiến đấu vô cùng dũng cảm, dùng pháo mà tiêu diệt được cả một xe bọc thép của giặc.

+ Dù đang bị thương rất nặng nhưng vẫn luôn giữ tư thế chiến đấu, không có chút run sợ: “Tao sẽ chờ mày ... mày là thằng chạy”.

- Nhận xét: Việt và Chiến chính là đại diện cho khúc sông sau, họ kế thừa những tinh hoa mà khúc sông trước để lại và còn chảy ra xa hơn khúc sông trước.

Ý thứ hai: Hình ảnh của hai chị em đi khiêng bàn thờ ba má gửi cho nhà chú Năm

- Đó là một sự tôn trọng, hết lòng hiếu thảo với cha mẹ đã khuất của mình

- Không khí thiêng liêng đó đã khiến Việt cảm thấy được mình đã trưởng thành hơn: Biết thương yêu chị, cảm nhận được sâu sắc mối thù đang đè nặng trên vai.

- Thể hiện sự trưởng thành của cả hai chị em, đã biết tự lo toan được mọi điều, gánh vác được tất cả những công việc quan trọng trong gia đình.

c) Kết bài

- Khái quát về giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện hết sức độc đáo, kể theo một mạch hồi tưởng có phần đứt nối của nhân vật Việt, ngôn ngữ giàu nét Nam Bộ, giọng kể đầy tính sử thi, ...

- Tác phẩm đã ngợi ca lên vẻ đẹp tâm hồn của con người Nam Bộ, khẳng định về truyền thống gia đình cũng như truyền thống dân tộc là một thứ sức mạnh to lớn để chống lại bọn kẻ thù xâm lược.

3. Hướng dẫn phân tích bài Những đứa con trong gia đình

3.1 Phân tích bài những đứa con trong gia đình ngắn gọn 

Nguyễn Thi là một trong những nhà văn tiêu biểu hàng đầu trong nền văn học Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Ông viết rất nhiều, viết hết sức chân thực về mảnh đất và người dân Nam Bộ để nó trở thành một không gian vô cùng đặc sắc ở trong văn thơ của Nguyễn Thi. Trong đó, “Những đứa con trong gia đình” là một trong những tác phẩm mà ông đã đặt nhiều tâm huyết nhất nói về người dân Nam Bộ với những vẻ đẹp về phẩm chất và tính cách anh hùng.

Nhan đề “Những đứa con trong gia đình” đã gợi ra sự tiếp nối của sự sống theo một mạch nguồn bất tận từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Không chỉ là nối tiếp huyết thống mà còn nối tiếp cả truyền thống. Qua đó, Nguyễn Thi cũng đề cao lên vai trò của gia đình đối với mỗi chúng ta, ở đó không chỉ là chiếc nôi nuôi dưỡng sự sống mà nó còn là nơi khơi gợi sức sống mãnh liệt về tình yêu với Tổ Quốc, tình yêu với gia đình. Ngoài ra, nhan đề còn gợi lên những hình tượng trung tâm trong tác phẩm là nhân vật Việt, chị Chiến, Chú Năm,…

Chú Năm lúc ấy là người thân lớn tuổi duy nhất còn sống trong gia đình, là chỗ dựa, cưu mang và chăm sóc thay cho ba má dạy dỗ chị em Việt. Chú chính là điểm tựa tinh thần của cả hai chị em Việt – Chiến để hai chị em có thể tiếp tục sống và chiến đấu hết mình. Ở Chú Năm thể hiện tất cả những vẻ đẹp của một người nông dân vừa mộc mạc, chất phác, lại mang trong mình vẻ đẹp riêng chỉ có ở người nông dân Nam Bộ. Tính cách có phần bộc trực, thẳng thắn và mạnh mẽ thông qua cách dạy dỗ hai chị em Việt – Chiến “thù cha mẹ chưa trả mà bảo vệ là chú chặt đầu”. Chú là một người ham sông ham bến và muốn đi nhiều nơi, viết rất nhiều. Tất cả hiện lên ở Chú Năm là một con người của đất đai sông nước và kênh rạch, nồng nàn hơi thở của vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt trong tâm hồn Chú Năm còn chứa đựng tình yêu và lòng yêu nước căm thù giặc vô cùng sâu sắc. Chú Năm cũng một là người có ý thức chăm chỉ giữ gìn và bảo vệ những truyền thống tốt đẹp của gia đình. Chú luôn chăm chỉ và tỉ mỉ ghi lại tất cả những sự kiện, sự việc trong gia đình, không để sót một cái nào. Đặc biệt là cuốn sổ mà chú đang giữ được ví như cuốn biên niên sử và chú cũng đại diện là gia phả sống cho một gia đình nông dân nam Bộ. Chú là hiện thân trực tiếp luôn sống với truyền thống, hướng tới Tổ quốc. Nếu ví gia đình của chú như một dòng sông thì chú Năm sẽ được ví là khúc thượng nguồn.

Má của Việt thì hiện lên là một người phụ nữ gan góc, mạnh mẽ nhưng có lòng yêu thương con cái sâu sắc. Cuộc đời má chồng chất nhiều đau thương gắn bó với mỹ ngụy. Tuy nhiên bằng chính bản lĩnh và nghị lực, người mẹ ấy đã nén đau thương để nuôi các con và duy trì được sự sống. Đau thương đó, người mẹ Nam Bộ chỉ biết nuốt vào trong mà lặng lẽ chịu đựng. Má là hình ảnh đặc trưng cho những người phụ nữ Nam Bộ, những con người bất khuất, nhân hậu, đảm đang mà lại vô cùng kiên cường và giàu đức hi sinh.

Dưới ngòi bút diễn tả nhân vật của Nguyễn Thi, chị Chiến xuất hiện với sự thừa hưởng về cả hình dáng lẫn tính cách của má. Dáng người thì khoẻ khoắn, chắc nịch, gánh vác được mọi công việc của gia đình, làm tròn trách nhiệm của một người chị cả trong gia đình. Chị Chiến còn được thừa hưởng những tính cách tốt đẹp của mẹ về sự mạnh mẽ, kiên cường và bản lĩnh. Là người phụ nữ tảo tần, vun vén mọi việc của gia đình và còn lòng yêu nước sâu sắc, ý thức phát huy những truyền thống cao quý của dân tộc. Tuy nhiên với cô gái 19 tuổi, Chiến vẫn giữ được vẻ ngây thơ, hồn nhiên và lại rất tinh tế, nhạy cảm. Qua những ngôn ngữ đơn giản và rắn rỏi, Nguyễn Thi đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của người con Nam Bộ.

Với ngòi bút đặc tả cùng với lối trần thuật ở ngôi thứ 3 thì Việt hiện lên như một cậu bé chỉ 18 tuổi vẫn giữ được sự ngây thơ, trong sáng và hồn nhiên nhưng lại là một cậu bé vô cùng yêu thương chị gái của mình. Việt còn là một cậu bé với lòng yêu thương cùng với lối sống tình nghĩa. Tuy nhiên, Việt cũng gan góc và vô cùng dũng cảm. Và hơn ai hết, trong tâm hồn Việt cũng chứa đựng rất nhiều tình yêu về quê hương, đất nước, luôn sục sôi cùng dòng máu truyền thống của cách mạng.

Chính ngòi bút mang đậm nét sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ vừa có tính tả thực, vừa có tính lãng mạn nhà văn đã xây dựng nên một gia đình vùng đất Nam Bộ có sự nối tiếp các thế hệ. Chính sức mạnh tạo ra từ tình thương và nỗi đau đã khiến cho những con người trong gia đình đặc biệt của thế hệ sau nhanh chóng trưởng thành và sẵn sàng mang trong mình trách nhiệm của gia đình và sức mệnh thiêng liêng của lịch sử. Việc xây dựng các nhân vật có sự tiếp nối thế hệ chính là cách nhà văn ca ngợi lên sức mạnh về tư tưởng, lý giải nguồn gốc tạo nên những chiến thắng.

3.2 Phân tích bài những đứa con trong gia đình hay nhất 

Nguyễn Thi (sinh năm 1928, mất năm 1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở xã Hải An, huyện Hải Hậu thuộc tỉnh Nam Định, ông đi vào miền Nam sinh sống từ năm 1943, tham gia cách mạng vào năm 1945. Năm 1954, ông được tập kết ra Bắc, công tác ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội và sáng tác dưới nghệ danh là Nguyễn Ngọc Tấn. Đến năm 1962, ông tình nguyện quay lại Nam, công tác ở Cục chính trị Quân giải phóng miền Nam. Thực tế chiến đấu khốc liệt của chiến trường là nguồn cảm hứng bất tận để ông có thể sáng tác ra những bút ký, truyện ngắn và tiểu thuyết với nghệ danh Nguyễn Thi.

Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi có tầm ảnh hưởng của văn nghệ giải phóng miền Nam giai đoạn đánh giặc Mỹ, xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người người dân Nam Bộ. Tác phẩm của Nguyễn Thi được bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu khốc liệt, ác liệt của chiến tranh, nhưng vẫn chìm đắm chất trữ tình.

Nguyễn Thi viết được rất nhiều thể loại: từ bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết… Sau khi ông hi sinh, những sáng tác của ông vẫn được sưu tập và in vào trong Truyện và kí Nguyễn Thi, xuất bản vào năm 1978; Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi toàn tập (bao gồm 4 quyển) xuất bản vào năm 1996. Năm 2000, ông lại được Nhà nước truy tặng danh hiệu Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Những đứa con trong gia đình là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của tác giả Nguyễn Thi. Truyện được viết vào những ngày chiến đấu hết sức gian khổ và ác liệt nhất nơi chiến trường miền Nam. Qua truyện, tác giả đã thể hiện rő nét vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Nam Bộ và khẳng định rằng: lòng yêu nước cùng sự căm thù giặc, tình cảm gia đình thiêng liêng luôn là sức mạnh tinh thần to lớn nhất của họ trong giai đoạn chống giặc Mỹ cứu nước.

Truyện kể về hai người chị em trong một gia đình có mối thù sâu với bọn giặc Mỹ cùng bè lũ tay sai bán nước. Chiến và Việt đã gửi lại nhà cửa và ruộng vườn cho người chú để tham gia vào bộ đội, trực tiếp cầm súng lên trả thù cho nhà, đền nợ cho nước. Đoạn trích nằm ở đoạn giữa của truyện, kể về một tình huống vô cùng đặc biệt của nhân vật Việt. Trong một trận chiến ác liệt, anh đã bị thương nặng và bị lạc đơn vị. Việt bị ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần, ranh giới giữa sự sống với cái chết vô cùng mong manh. Nhưng cũng chính vì vậy mà mong muốn được sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Việt nhớ đến má, nhớ đến những người đồng đội, nhớ những giây phút không thể quên trước khi đi nhập ngũ của cả hai chị em. Những hình ảnh về người dân và cảnh vật quê hương bỗng hiện lên rő nét trong tâm trí của Việt.

Đoạn trích có thể chia thành hai cảnh, trong đó cảnh một tác giả đã kể về một tình huống và tâm trạng của nhân vật Việt lúc bị thương còn cảnh thứ hai là cảnh mà Việt nhớ đến chuyện hai chị em tranh giành nhau việc nhập ngũ và sau đó thì cùng nhau thu xếp nhà cửa để lên đường đi chiến đấu. Ở cảnh thứ nhất, lần thứ tư Việt tỉnh lại, trong ký ức đã hiện lên những kỉ niệm vui có buồn có về người mẹ thân yêu luôn luôn đùm bọc, che chở cho đàn con: Má đang bơi xuồng hay má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy và rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… Cả chị lẫn em đều nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đó quanh đây. Má biến theo ánh đom đóm phía trên nóc nhà hay đang ngồi tựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?

 

Trong những đoạn khác, Nguyễn Thi đã chọn những chi tiết điển hình chứa nhiều hàm ý nghĩa nhằm khắc họa lên hình tượng của người phụ nữ một tay thì bồng con, một tay lại cắp rổ đi theo thằng giặc mà đòi đầu chồng, hoặc hiên ngang dám đối đáp với kẻ thù khi hai bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con còn đang nép dưới chân. Mỗi khi bọn lính bắn dọa, mắt má sắc lẹm lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt qua sông, vượt qua biển… Đó chính là hình ảnh của người phụ nữ vùng đất Nam Bộ gan góc, kiên cường với lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc đến sự thương chồng thương con hết mực. Cuộc sống vốn lam lũ vất vả, chồng chất những đau thương nhưng họ vẫn luôn cắn răng chịu đựng, vượt qua mọi việc để nuôi con và đánh giặc.

Hình ảnh chú Năm hiện lên với nhiều phẩm chất đặc trưng của dòng tộc, gia đình. Giữa lúc anh cán bộ huyện còn đang phân vân không biết phải giải quyết thế nào trước tình cảnh của hai chị em Chiến, Việt giành nhau ghi tên xin nhập ngũ thì chú Năm lại đứng ra để bảo lãnh cho cả hai qua hình ảnh từ dưới sân, chủ Năm đã bước lên. Chú nheo mắt nhìn vào chị em Việt và nói với anh cán bộ rằng:

– Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong.

Chú Năm vẫn hằng ngày cẩn thận ghi chép đầy đủ những tội ác dã man của lũ giặc đối với dòng họ và gia đình mình cùng với chiến công của những thành viên vào một cuốn sổ truyền thống. Khi Chiến và Việt đang chuẩn bị lên đường, chú Năm đã bàn giao cuốn sổ ấy cho hai chị em:

“Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kỳ đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước - Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt. Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây. Gọi là giao vậy chớ đưa cho bây rồi bây lội đùng đùng qua sông là hư hết. Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày.”

Cuốn sổ ấy tuy nhỏ bé nhưng ý nghĩa thì vô cùng lớn bởi nó vừa biểu dương được công trạng của từng thành viên trong gia đình lại vừa là một tấm bia đạn căm thù, vừa thể hiện được quyết tâm muốn đánh giặc của cả một đại gia đình. Trước kia, cuốn sổ đó do thế hệ của cha chú giữ gìn và ghi chép, còn nay con cháu khi trưởng thành, chú Năm cũng bàn giao lại cho thế hệ trẻ để họ viết tiếp. Vì vậy, cuốn sổ ấy cũng chính là câu chuyện về tình cha con, chú cháu cùng đứng lên đánh giặc để giải phóng cho quê hương. Điều đó được thể hiện vừa giản dị mà sâu sắc quy luật phổ biến trong lịch sử Việt Nam, quy luật về sức sống Việt Nam: Đánh đuổi giặc ngoại xâm đã là sự nghiệp chung của rất nhiều thế hệ.

Là một nông dân vừa chất phác vừa giàu tình cảm, mỗi khi làm xong một công việc, tâm hồn của chú Năm lại lâng lâng bay bổng và dạt dào cảm xúc. Chú đã gửi gắm tình cảm tha thiết của chính mình vào những tiếng hò, tiếng hát quen thuộc với quê hương. Lúc hai chị em Chiến, Việt đang chuẩn bị ra trận, chú hoàn toàn tin tưởng rằng các cháu sẽ có đủ sức gánh vác được việc lớn của xã hội. Trong lòng đầy vui vẻ, chú cất lên những tiếng hò thay cho lời nhắn nhủ và lời thề nguyện:

“Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.”

Nhân vật Chiến tuy không được tác giả miêu tả quá nhiều như nhân vật Việt nhưng vẫn hiện lên vô cùng sinh động trong tâm trí của người đọc. Chiến là hình ảnh của một cô gái Nam Bộ rất đảm đang, vị tha và nhân hậu. Những gì quen thuộc và tiêu biểu trong phẩm chất cao quý của người mẹ hầu như đã để lại ấn tượng rất sâu đậm trong cô con gái với cái tên rất con trai là Chiến. Bởi thế nên mỗi khi nghe thấy chị Chiến nói, Việt lại hình dung ra hình ảnh má và thấy chị sao lại giống má đến thế! Điều đó đã làm cho Việt cảm thấy bùi ngùi nhớ má và càng thấy thương chị hơn. Hai chị em tuy với hai tính cách hoàn toàn khác nhau nhưng lại giống nhau ở chỗ đều vô cùng hiếu thảo, ngoan ngoãn, biết gìn giữ và phát huy được những truyền thống cách mạng của gia đình, của dòng họ và làng xóm, quê hương.

Trong tác phẩm này, Việt là nhân vật được nhắc đến nhiều nhất. Việt vừa có những nét riêng rất dễ mến của một cậu con trai mới lớn là hồn nhiên và hiếu động; vừa có tính cách của một chiến sĩ cách mạng dũng cảm và kiên cường.

Ở cảnh thứ nhất, nhà văn đã cho nhân vật Việt được xuất hiện trong tình huống hoàn toàn đơn độc giữa một trận địa vắng lặng đến rùng rợn sau cuộc giao tranh và giữa sự rình rập của biết bao hiểm nguy, của cái chết có thể ập tới bất cứ lúc nào. Nguyễn Thi đã viết rất hay, rất cảm động về cái cảm giác một mình phải bật lên rő ràng nhất, nỗ lực nhất của chàng tân binh một thân một mình, lại bị thương rất nặng, hai mắt không còn có thể nhìn thấy gì, sức đã cạn vì đói và khát. Ngón tay của Việt đau không còn kéo nổi cò để bấm súng. Việt lết đi được một đoạn cũng như cả một kỳ công. Anh ngất đi rồi tỉnh lại rất nhiều lần. Ở trạng thái như vậy, người ta có thể nghĩ tới gì? Chắc chắn là sẽ nhớ đến những kỉ niệm vui buồn thân thiết nhất đã hình thành nên đời sống tinh thần của mình. Vì vậy, với việc nhân vật Việt nhớ tới những đồng đội và người thân, tác giả đã khẳng định thêm rằng gia đình là cội nguồn của sức mạnh con người và truyền thống gia đình thực sự rất thiêng liêng:

“…Khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…”

Có một chi tiết thú vị không kém là đánh giặc thì Việt không hề sợ nhưng lại rất sợ ma. Tuy mới chỉ nhập ngũ nhưng Việt đã tỏ ra mình là một chiến sĩ rất thông minh, phân biệt được rő giữa tiếng súng của ta và tiếng súng của giặc; phán đoán được mọi tình huống của trận đánh như: “Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai… Việt ngóc dậy. Rő ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mő và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm… chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ.”

Tuy đang lâm vào một tình huống sống chết mong manh nhưng Việt vẫn luôn hướng tới đồng đội, tin tưởng vào một chiến thắng sẽ đến: “Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…”

Đối mặt với cái chết, Việt đã cố gắng tìm lại về với cuộc sống: “Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lỗ nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…”

Đời người chiến sĩ, giữa hy sinh tính mạng với chịu đựng bao nhiêu khó khăn gian khổ hoặc đau đớn về thể xác thì việc hy sinh mạng sống dễ chấp nhận hơn nhiều. Đoạn văn kể lại nghị lực phi thường của nhân vật Việt là khúc ca đã ca ngợi lên tinh thần dũng cảm của người lính chiến giải phóng quân nhỏ tuổi.

So sánh giữa nhân vật Chiến và Việt, ta có thể nhận ra điểm giống nhau giữa hai chị em là đều mang một tình yêu với quê hương, với đất nước và thái độ căm thù lũ giặc sâu sắc. Tuy chỉ là những đứa trẻ ở độ tuổi mới lớn nhưng Chiến và Việt đã khắc sâu vào trong tâm khảm mối thù sâu sắc không đội trời chung với những kẻ đã ra tay giết hại ba má cùng với đồng bào mình. Từ ấy, hai chị em đã xác định được mục đích của cuộc đời mình chính là phải trả thù được cho ba má và cho quê hương. Chính vì mối thù ấy mà cả hai chị em đều nung nấu quyết tâm phải đánh đánh được giặc. Mối thù ấy dường như thôi thúc giúp họ lớn nhanh hơn. Khi nghe Chiến kể chú Năm nói lần này hai chị em sẽ cùng ra đi chiến đấu, thù ba má nếu chưa trả được mà trở lại thì chú sẽ chặt đầu, Việt nói một cách tỉnh queo: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị.” Còn nhân vật Chiến thì cũng khẳng khái nói rằng: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”

Tuy nhiên, sự độc đáo và hấp dẫn trong ngòi bút của Nguyễn Thi ở chỗ ông đã có sự miêu tả khác nhau nên nhân vật Chiến và Việt hiện lên với những cá tính riêng không thể lẫn.

Hơn em chỉ một tuổi nhưng Chiến luôn tỏ ra mình là một người chị khôn lớn và đảm đang, việc gì cũng có thể lo liệu được. Ba má đã mất, Chiến sớm đã ý thức được vai trò của người chủ trong gia đình. Chiến đã phải lớn vượt lên so với lứa tuổi thì mới thay ba má lo liệu được việc nhà và bảo ban các em.

Việt là em nên ỷ lại mọi công việc cho chị, thường bắt chị phải chiều theo ý của mình. Chiến thì nhường nhịn em trong đủ điều nhưng có một việc Chiến sẽ kiên quyết không nhường, đó chính là ghi tên tòng quân. Tính cách của người chị yêu thương em hết mực cũng thể hiện ở chi tiết đó. Thực ra, đây chính là một đức tính hy sinh to lớn, một sự nhường nhịn rất lớn. Chiến muốn giành cho mình phần nguy hiểm để em có thể được sống bình yên. Đoạn văn thuật lại cảnh hai chị em nhân vật Chiến và Việt chuyện trò với nhau vừa mộc mạc lại vô cùng cảm động:

“- Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm, qua năm hãy đi.

Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng:

- Bộ mình chị biết đi trả thù à?

- Hồi đó má nói cho tao đi, mầy ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi đi sau.

- Má nói hồi nào?

Má chết rồi, không biết ai mà phân chứng. Nhưng chị Chiến vẫn không chịu, việc này đâu có nhường được, chị sang vận động chú Năm.”

Là chị nên Chiến luôn tỏ ra có sự tính toán vô cùng chu đáo, còn Việt thì lại nông nổi và vô tư. Một trong những tình tiết cảm động nhất trong câu chuyện này là cuộc bàn bạc giữa hai chị em vào đêm cuối cùng trước khi ra trận. Họ phải làm những công việc quá sức so với lứa tuổi của mình. Đó là việc thu xếp nhà cửa, làm ăn tới việc nuôi dạy thằng út em và cả việc hương khói cho ba má…

- Bây giờ chị Hai ở xa. Chị em mình đi thì thằng út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Chú Năm nói có con nít học ê a có gì nó quét dọn cho. Thằng út cũng học ở đây. Mầy chịu không?

Việt chụp một con đom đóm úp trong lòng tay:

- Sao không chịu?

- Giường ván cũng cho xả mượn làm ghế học, nghen?

- Hồi đó má dặn chị làm sao, giờ chị cứ làm y vậy, tội chịu hết.

- Má dặn tao hồi nào? Giờ còn có tao với mầy thôi. Nếu đồng ý thì nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vả, đèn soi với nơm để gởi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới, nghen?

- Tôi nói chị tính sao cứ tính mà…

…" Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ đảng chia cho cô bác khác mần, nghen? Hai công mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để dành đó làm đám giỗ ba má. Em cũng ừ nghen?

- Ừ!

- Còn bàn thờ má em tính gởi đâu? Gởi sang chủ Năm cho thằng út nó coi chừng hay là để chị Hai về đem đi?

Việt ngóc đầu lên dòm bàn thờ. Từ nãy giờ đang mải với ý nghĩ má đã về, nghe chị hỏi, Việt lại tin má đã về ngồi đâu đó thật. Việt nói:

- Mình đi đâu thì má đi theo đó chớ lo gì mà lo?

- Vậy chở ba má không theo con thì theo ai, nhưng mà cũng phải tính cho đâu ra đó chớ. Đem bàn thờ sang gởi chú Năm, em có ừ không?

- Ừ!… Mà hồi đó má dặn chị vậy hả?

- Má cỏ biết má chết đâu mà dặn.

Việt sải chân ra giường:

- Vậy mà nói nghe in như má vậy.

Chị Chiến hử một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi.

Chị nói:

- Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy.

Đúng rồi, hèn chi chị nói nghe thiệt gọn. Vậy mà hồi nãy còn giành đi với mình. Việt nghĩ vậy, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

Chiến biết rằng Việt chưa thể lo toan công việc nhà, nhưng nhà chỉ còn hai chị em nên Chiến vẫn phải đem việc nhà ra bàn giao với em một cách dân chủ. Tuy nhiên, Chiến đã dự định được từ trước, mọi việc đã được sắp xếp ngay ngắn, khiến cho Việt cảm thấy chị của mình thật chín chắn, già dặn giống y hệt má. Còn về Việt, trong khi nghe chị nói thì không để tâm, lại để mắt tới mấy con đom đóm và trong lúc chị Chiến vẫn đang nói thì Việt đã lăn ra ngủ từ bao giờ không biết.

Câu chuyện trao đổi của hai chị em cũng đã bộc lộ được phẩm chất đáng quý của tuổi trẻ vùng đất Nam Bộ giai đoạn chống Mỹ: đã ra đi là đã quyết tâm phải chiến đấu và phải chiến thắng. Điều đáng quý nhất của hai chị em là vô cùng thương yêu, lo lắng cho nhau và cả hai đều nhớ tới má: “Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính toán việc nhà ra làm sao chớ?” Chị em Việt được sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, cho nên dù cho cha mẹ đã mất nhưng lời căn dặn của cha mẹ vẫn thấm sâu vào trong tâm trí, nhắc nhở các con tỉnh táo trong từng suy nghĩ, từng lời nói cũng như hành động.

Trước khi lên đường thì Việt có đi câu một ít cá về làm bữa cơm để cúng má trước khi dời bàn thờ qua nhà chú… Cúng mẹ và cơm nước xong xuôi, mấy chị em, chú cháu cũng thu xếp hết đồ đạc dời nhà. Người đọc sẽ không thể nào quên được đoạn văn rất cảm động khi tả về cảnh hai chị em Chiến, Việt đang khiêng bàn thờ má qua gửi bên nhà của chú Năm: “Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt thấy lòng mình rő như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.”

Chỗ hay nhất trong đoạn văn phía trên có lẽ là cái không khí thiêng liêng đã làm thay đổi cả cảnh vật và con người. Con đường quen thuộc bỗng dưng có thêm mùi hoa cam thoang thoảng lại từ chân vườn. Còn đối với nhân vật Việt, cái không khí thiêng liêng đó khiến cậu trở thành một người lớn. Lần đầu tiên, Việt hiểu rő được lòng mình, bỗng thấy thương chị đến lạ và cảm thấy rất rő ràng về mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó vẫn đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật vô cùng cô đọng, dồn nén và chất chứa rất nhiều ý nghĩa, vừa là một hành động cụ thể, lại vừa mang yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, lại vừa chan chứa tình yêu thương… Nếu để ý, người đọc có thể thấy tác giả còn tô đậm lại sức vóc của cả hai chị em. Chiến thì hai bắp tay tròn vo lại sạm đỏ màu do cháy nắng… dang cả thân hình to lớn và chắc nịch của mình… nhấc bổng được một đầu bàn thờ của má lên. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp và trưởng thành hơn. Những đứa con trong gia đình giờ đây đã đủ sức cầm súng để đánh giặc như thế hệ của cha mẹ của mình.

Câu chuyện trong đoạn trích được trần thuật lại chủ yếu từ điểm nhìn của các nhân vật chính, dựa theo dòng hồi tưởng có sự đan xen với thực tại, vì thế mà đậm chất trữ tình và rất sống động. Phẩm chất và tính cách của nhân vật được khắc họa rất rő nét. Trong kí ức của nhân vật hiện lên một cách rő ràng từng kỉ niệm của quá khứ chưa xa. Đó là những ngày tháng Việt được sống trong tình yêu thương của các đồng đội, của những người thân yêu ở trong gia đình. Quá khứ này đã tạo điều kiện cho nhà văn có thể đi sâu vào trong thế giới nội tâm phong phú của từng nhân vật. Kết cấu của truyện không dựa vào trật tự thời gian. Từ những chi tiết ngẫu nhiên ở hiện thực chiến trường, tác giả đã gợi được những dòng hồi tưởng về quá khứ từ chuyện này sang chuyện khác một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút đặc sắc của nhà văn Nguyễn Thi, nhân vật nào cũng rất sống động và có cá tính riêng. Nhờ ngôn ngữ đậm chất miền Nam Bộ mà tác phẩm cũng trở nên chân thực và sinh động.

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình vừa mang đậm tính hiện thực lại vừa giàu tính trữ tình. Những suy nghĩ cùng cảm xúc của nhân vật Việt được tác giả thể hiện bằng giọng kể vô cùng tự nhiên, mộc mạc rất đúng với tâm trạng của một anh chàng mới lớn, xa gia đình để đi chiến đấu chưa được bao lâu. Điều này phần nào phản ánh được những phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ Giải phóng quân trong hoàn cảnh nguy hiểm và khốc liệt của chiến trường. Sự đau đớn do từng vết thương trên thân thể gây ra không thể làm cho Việt cảm thấy khủng hoảng tinh thần mà ngược lại, anh vẫn rất bình tĩnh sống với những ký ức tuổi thơ gắn bó biết bao kỷ niệm vui buồn và tìm thấy ở đây một nguồn sức mạnh lạ thường. Nhà văn Nguyễn Thi đã bộc lộ phẩm chất tốt đẹp của những người lính không phải qua chiến công mà thông qua nghị lực phi thường và đời sống tình cảm vô cùng phong phú của họ.

Chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng giai đoạn đánh Mỹ còn được tác giả khai thác trong đời sống tinh thần vừa giản dị lại cao đẹp của thế hệ trẻ vùng Nam Bộ. Hai chị em Chiến và Việt là những đứa con vừa ngoan ngoãn, hiếu thảo và trong chiến đấu thì họ lại là những người chiến sĩ vô cùng kiên cường và dũng cảm.

Thông qua truyện, tác giả Nguyễn Thi cũng kín đáo đề cập đến một vấn đề mang tính xã hội: Gia đình là một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng to lớn đến quá trình hình thành nhân cách. Những người con đã được giáo dục đàng hoàng trong gia đình sẽ trở thành những thành viên vừa tích cực lại hữu ích cho xã hội. Ở mỗi nhân vật đều có sự gắn bó vô cùng sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình cảm yêu đất nước, yêu cách mạng, giữa truyền thống của gia đình với truyền thống của dân tộc, thà hi sinh tất cả chứ quyết phải giành lại độc lập tự do. Điều ấy đã tạo nên một sức mạnh vô cùng to lớn của dân tộc Việt Nam trong công cuộc chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc.

3.3 Phân tích bài những đứa con trong gia đình chi tiết 

Nguyễn Thi là một nhà văn đã gắn bó sâu sắc với cuộc sống cùng chiến đấu anh dũng của nhân dân và quân dân miền Nam. Những sáng tác văn học của Nguyễn Thi tập trung vào phản ánh những hiện thực đấu tranh vô cùng dữ dội và quyết liệt của người dân Nam Bộ chống lại đế quốc Mỹ xâm lược cùng bọn tay sai, giành lại độc lập tự do và thống nhất cho toàn đất nước.

Những đứa con trong gia đình đã được Nguyễn Thi viết vào những ngày chiến đấu ác liệt đó là tháng hai năm 1966. Truyện ra đời ở bối cảnh lịch sử như vậy nên tác phẩm của Nguyễn Thi như một bức tranh sử thi vô cùng đồ sộ, hoành tráng về người dân Nam Bộ trong công cuộc chiến đấu nói riêng và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam ở trong kháng chiến chống giặc Mỹ nói chung.

Tính chất sử thi không chỉ là các khái niệm thể loại hoặc để chỉ quy mô của tác phẩm, mà đó là một tác phẩm nhằm phản ánh cuộc sống con người thời đại đã được phủ lên một màu sắc đầy tính sử thi. Tính chất sử thi là một đặc điểm tiêu biểu của dòng văn học sáng tác trong nền tảng của ý thức cộng đồng toàn dân bắt nguồn vào thời kỳ đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta bao gồm bọn thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

Tính chất sử thi đã thể hiện ở sự xung đột trong tác phẩm văn học đó là sự xung đột giữa toàn dân với kẻ thù đang xâm lược. Chủ đề cơ bản mang tính chất sử thi là tình cảm vô cùng yêu thương, trân trọng và ngợi ca lên tinh thần dân tộc, truyền thống anh hùng trong quá trình đấu tranh giành lại độc lập, tự do. Lập trường sử thi là nhà văn vì lợi ích của toàn dân tộc và cộng đồng. Nhân vật có tính chất sử thi là nhân vật anh hùng đặc trưng cho phẩm chất ý chí cùng sức mạnh của dân tộc, đặc biệt là những hình tượng lãnh tụ, hình tượng của chiến binh, hình tượng của người mẹ.

Giọng điệu cũng mang tính sử thi cơ bản là giọng điệu ngợi ca và tụng ca; giọng khẳng định và cổ vũ cho nhân dân chiến đấu. Tình cảm cũng mang tính sử thi chủ yếu là tình yêu với Tổ quốc, yêu quê hương đồng bào, yêu bộ đội… Do những đặc điểm đó mà những khía cạnh đời sống khác như là đời sống cá nhân hoặc sinh hoạt đời thường với các hiện tượng tiêu cực… đều được xem xét theo xu hướng sử thi. Tác phẩm không phản ánh những vấn đề về cá nhân mà phản ánh những số phận, phẩm chất của cả một cộng đồng trong đời sống hiện tại.

Sử thi ở đây không phải là một vấn đề thể loại mà là khuynh hướng sử thi. Những đứa con trong gia đình cũng mang theo khuynh hướng sử thi. Vấn đề phản ánh ở trong tác phẩm sẽ tập trung vào một gia đình có truyền thống cách mạng đại diện cho nhân dân Nam Bộ và toàn đất nước trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm mang ý nghĩa rộng lớn ấy, trước hết là vì các thành viên ở trong gia đình mà nhà văn phản ánh mang ý nghĩa điển hình cho xã hội và nghệ thuật sinh động.

Ý nghĩa khái quát và bao trùm, sức khái quát hóa nghệ thuật vô cùng lớn lao bao giờ cũng vượt ra khỏi phạm vi đề tài của những tác phẩm có sức sống lâu dài trong lòng độc giả. Gia đình của nhân vật Chiến và Việt là một gia đình vô cùng điển hình của người dân vùng Nam Bộ trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu nói của chú Năm “chuyện của gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó” đã khái quát được một trong những phương diện cơ bản nhất về chủ đề truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.

Qua thiên truyện ngắn ấy, Nguyễn Thi đã khám phá được, phân tích và lý giải sức mạnh cũng như chiến công của thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, giữa truyền thống của gia đình với truyền thống của dân tộc đã hình thành nên sức mạnh vô cùng to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong công cuộc chiến đấu chống giặc Mỹ cứu nước.

Những đứa con trong gia đình có chung một huyết thống và truyền thống nên sẽ mang những nét giống nhau bao gồm hình dáng, tính cách đến tâm hồn. Chị Chiến giống má từ hình dáng đến tính cách vô cùng gan góc, đảm đang và tháo vát. Ngay cả sắp xếp công việc nhà cửa, ruộng vườn của Chiến vào đêm trước khi đi tòng quân cũng rất giống má nếu má vẫn còn sống, khiến cho Việt thấy rằng “in như má vậy”.

Chiến và Việt đều mang “hai bộ mặt bầu bầu cùng một khuôn có hai cái chót mũi hơi hớt lên”. Họ đều là những người con sinh ra trong một gia đình nông dân vùng Nam Bộ với truyền thống yêu nước căm thù lũ giặc sâu sắc, thủy chung son sắt cùng cách mạng, quyết tâm đánh đuổi giặc tới cùng, dẫu chỉ “còn cái lai quần cũng đánh”. Đó là những “chất Út Tịch” trong tâm trí họ.

Họ yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, ai cũng thấy tự hào về truyền thống của gia đình và muốn viết tiếp cho truyền thống đó. Truyện ngắn liên tục chảy từ thế hệ của cha anh đến thế hệ của những người lính trẻ anh dũng giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Theo quan niệm của Nguyễn Thi, mỗi người dân hay mỗi đời người ở trong một gia đình được cho là khúc sông thuộc một dòng sông truyền thống. Tuy nhiên do “mỗi người một khúc” nên ai cũng đều có nét tính cách riêng biệt, không có ai giống ai.

Mỗi nhân vật đều sẽ mang ý nghĩa điển hình cho phẩm chất anh hùng cũng như ý chí chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ được gia đình, quê hương và đất nước của người dân miền Nam. Đầu tiên phải nói tới nhân vật chú Năm. Trong dòng sông truyền thống thì gia đình nhà chú Năm thuộc khúc thượng nguồn. Đây là một hình tượng vô cùng đẹp, có ý nghĩa đại diện cho truyền thống gia đình. Chú là một người đàn ông vùng Nam Bộ ham sông, ham bến, sống rất thật thà, bộc trực lại vui tính, tính cách không kém phần mạnh mẽ, phóng khoáng và quyết đoán.

Chú cảm thấy vui mừng khi cả hai đứa cháu của mình đều muốn đi bộ đội. Chú bước lên xin ghi tên của cả hai chị em nhân vật Chiến và Việt và nói rằng: “Tôi xin một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong?”.

Không hề có tính toán tới cá nhân, chú luôn luôn dạy dỗ, động viên và nhắc nhở các cháu: phải giết được giặc để giành lại độc lập. Chú hiểu được vận mệnh của đất nước và của dân tộc không thể nào tách xa hạnh phúc của từng cá nhân, từng gia đình. Chú lập một cuốn sổ gia đình, chờ cho hai cháu trưởng thành, trao cuốn sổ thiêng liêng ấy cho hai đứa cháu. Chú hứa rằng: “Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày”.

Cuốn sổ của gia đình và người chú như một nguồn khích lệ thi đua lập công giết giặc từ những đứa cháu. Chú còn bảo rằng: “Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước” rồi “chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi nước mắt”,. Chú biết rằng các cháu khi ra trận thì ranh giới giữa sự sống với cái chết thật sự mong manh. Gia đình của chú đã bị mất đi toàn những người yêu thương nhất và có thể chú cũng sẽ mất đi cả những đứa cháu mà chú coi chúng như con đẻ của mình.

Là một người lao động chân chất nhưng tâm hồn của chú lại bay bổng và dạt dào. Chú hay cất lên giọng hò nhằm gửi gắm những tâm tình và ước mơ để nhắn nhủ với các cháu. Chú năm là đại diện cho truyền thống gia đình, đại diện cho lời nhắn nhủ của bậc cha chú với các cháu về một cuộc đấu tranh giành lại độc lập và hạnh phúc cho gia đình.

Tiếp đến là nhân vật Chiến – chị gái của Việt – cô cháu gái vô cùng gan gộc của chú Năm. Chiến là cô gái sở hữu những nét đẹp ngoại hình và tính cách y hệt mẹ. Người mẹ có thể đã ngã xuống vì bom đạn của kẻ thù nhưng má sẽ còn tái sinh trong máu thịt và sống mãi trong cuộc đời của những người con. Nguyễn Thi đã có ý thức tô đậm nét thừa kế từ người mẹ ở nhân vật Chiến.

Chiến cũng có vóc dáng chắc nịch, đủ sức để có thể vượt qua bao gian khổ như má. Ba má đều đã mất sớm, hơn em trai chỉ có một tuổi nhưng Chiến đã tỏ rő sự già dặn và khôn ngoan, biết lo toan quán xuyến mọi việc trong gia đình một cách hợp lý, chu đáo. Nhà chỉ còn có ba chị em phải tự trông nom và bảo ban nhau. Chiến cũng tỏ rő vai trò một người chị cả vô cùng đảm đang của mình.

Ngày Chiến và Việt cùng ghi tên vào tòng quân, chỉ còn mỗi thằng Út em mới có mười tuổi vì vậy mà nhà cửa, ruộng vườn phải thu xếp làm sao cho hợp lý. Những sắp đặt của Chiến cho thấy rằng cô thực sự là một người đã trưởng thành, chín chắn, biết suy nghĩ mọi việc. Những giờ phút thiêng liêng giữa việc đi và ở, giữa cuộc sống ở quê nhà và ở quân ngũ, giữa cái quen và lạ khiến cho Chiến thao thức không tài nào ngủ được.

Suy nghĩ và hành động của nhân vật Chiến đã lộ rő nét đẹp của con người hy sinh vì cộng đồng. Chiến bàn bạc với Việt để nhà lại cho “xã mở trường dạy học”, và để “giường quán cũng cho xã mượn làm bàn ghế học”. Ruộng đất do cách mạng cấp thi trao lại cho chi bộ bà con cô bác khác để làm lụng. Chuyện công và chuyện tư đều đã được Chiến tính toán kỹ càng, thấu đáo. Các dụng cụ của gia đình như chén, cuốc, đèn, vá, nơm, soi đều gửi chú Năm để cho chị Hai muốn lấy thứ gì thì lấy, hai công mía thì nhờ chú Năm đốn để dành làm giỗ cho má.

Hai chị em quyết định sẽ khiêng bàn thờ sang gửi chú Năm để có thể yên tâm đi chiến đấu. Cuộc sống thiếu đi mẹ đã tôi luyện Chiến trở nên già dặn, chắc chắn và khôn ngoan trước tuổi. Biết cậu em trai của mình vẫn còn vô tâm và vô tư lắm, nhưng Chiến vẫn ngồi bàn bạc với em một cách kỹ càng và nghiêm trang. Má anh hùng thì sẽ đẻ ra con anh hùng. Là một nữ nhi nhưng khí phách của Chiến không khác đấng nam nhi thời ấy. Chiến biết tội ác của bọn giặc không hề có sự phân biệt giữa nam nữ, già trẻ… Vì thế đã làm cho người Việt Nam phải góp thêm công sức cho kháng chiến.

Chiến nhất quyết không chịu nhường em vào bộ đội, không chịu thua kém em về khí phách. Những câu nói của Chiến vào đêm trước ngày đi xa chính là lời thề tựa như dao chém đá: “Chú Năm nói mày với tao đi kì này là ra chân trời, mặt biển, xa nhà ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về thì chú chặt đầu”; “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.

Nhân vật Chiến là một mẫu nhân vật đại diện cho thời kỳ kháng chiến chống giặc Mỹ. Đó là chiến sĩ Vő Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai,… những nữ chiến sĩ anh hùng con cháu của Trưng Trắc và Trưng Nhị. Tính lịch sử của các nhân vật toát lên qua vẻ đẹp tinh thần cũng như sự hy sinh cao cả.

Con sóng vươn ra xa nhất, cao nhất trong dòng sông truyền thống của gia đình là Việt. Việt mới chỉ mười tám tuổi, vẫn còn bắn chim, bắt ếch, câu cá… Việt đều rất thích. Bao giờ Việt cũng sẽ giành phần hơn cho chị. Gia đình có truyền thống yêu nước và yêu cách mạng như một sợi dây giúp xâu chuỗi thế hệ này với thế hệ kia đã sinh thành và nuôi dưỡng Việt. Những hình ảnh về người thân đã bị kẻ thù giết hại vẫn còn hằn sâu trong tâm trí Việt và hun đúc trong Việt lòng căm thù ngùn ngụt, tinh thần quả cảm đã hình thành trong Việt từ rất lâu rồi.

Trong trận chiến đấu đầu đời, mặc dù có bị thương rất nặng, nhưng sự cố gắng chịu đựng ở cậu chiến sĩ trẻ ấy rất đáng khâm phục. Khắp người Việt không còn chỗ nào lành lặn. Việt như cảm thấy tê dại cả tay chân. Khắp người nước hay máu cũng không biết, chỗ thì ướt sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ lại khô cứng […]. Trời tối đi một cách kỳ lạ, Việt cho mũi lê đi phía trước, rồi tới hai bàn tay, hai bàn chân nhức nhối thì cho nó đi phía sau cùng. Sau đó Việt bò gấp đi qua những cái gì nữa cũng không cần biết. Cậu cũng quên rằng khắp người mình đang rỉ máu. Trong mơ hay thực thì tình cảm về người thân và đồng đội luôn là nguồn động lực tạo nên sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn cho Việt.

Trong hoàn cảnh ấy người lính giải phóng quân vẫn rất bình tĩnh, chủ động mà không hề run sợ. Hiện tại và cảnh ngộ lúc này, thật khủng khiếp dễ đưa con người vào trạng thái hết sức hoảng hốt và lo âu. Nhưng tâm trí vẫn sẽ đưa Việt trở về với biết bao kỉ niệm đẹp của những ngày vừa qua. Biết bao căm thù sâu sắc và Việt cũng vẫn yêu thương tha thiết những người thân cùng những người đồng đội, đồng chí.

Tình yêu với quê hương, đất nước không phải điều gì lớn lao mà nó sẽ bắt nguồn từ tình yêu thương với những người ở xung quanh ta. Mẫu số chung của những con người thuộc gia đình Việt là truyền thống về gia đình, là lòng căm thù quân xâm lược sâu sắc. Yêu thương và căm thù chính là hai nguồn sức mạnh hình thành nên tính cách đặc biệt ngoan cường khi nói đến nhân vật của Nguyễn Thi.

Ngòi bút của nhà văn mang đậm chất dữ dội, thực tế đầy khốc liệt và bão táp của cách mạng đã tạo nên họ, những nhân vật sử thi trong thời đại ngày nay. Họ không là những anh hùng do chính thời đại sản sinh mà đó còn là những vị anh hùng, từ sự tiếp nối cùng sự phát huy truyền thống, nếp nhà, một văn hoá thiêng liêng mà bao thế hệ trước đã truyền lại cho lớp con cháu phía sau.

Cảm hứng về những con người trong tác phẩm của Nguyễn Thi chính là cảm hứng sử thi, cảm hứng ngợi ca những con người vùng Nam Bộ vô cùng anh hùng. Đây là một đặc trưng trong thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 nói chung và truyện ngắn của tác giả Nguyễn Thi nói riêng.

Những đứa con trong gia đình không chỉ phản ánh đời sống chân thực mà còn khắc họa lên những tấm gương chiến đấu oanh liệt mãi mãi sáng ngời mà nó còn mang đậm khuynh hướng sử thi. Nó cũng là nhận xét vô cùng khái quát cho toàn bộ sáng tác của nhà văn Nguyễn Thi và văn học Việt Nam giai đoạn chống Mĩ.

 

Sau khi phân tích bài Những đứa con trong gia đình có thể thấy Nguyễn Thi đã vô cùng xuất sắc thể hiện tinh thần chiến đấu của những người chiến sĩ cách mạng. Không những thế còn nói lên được những tình cảm tha thiết với gia đình của họ. Với những chi tiết đặc sắc ấy, tác phẩm mang đến giá trị to lớn trong việc tố cáo tội ác của quân thù và đề cập tới tình yêu của con người. Cùng tham khảo những bài văn mẫu và tự viết cho mình một bài phân tích hoàn chỉnh. Ngoài ra, nếu muốn học thêm những tác phẩm khác thuộc chương trình ngữ văn cũng như tất cả các môn học khác, các em cùng truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học với thầy cô VUIHOC ngay nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-phan-tich-bai-nhung-dua-con-trong-gia-dinh-ngu-van-12-2031.html

 

Tovább

Soan bai nhung dua con trong gia dinh

Hướng dẫn Soạn bài Những đứa con trong gia đình của tác giả Nguyễn Thi giúp các em học sinh có sự chuẩn bị tốt nhất trước khi bước vào bài học trên lớp. Cùng tham khảo bài viết dưới đây ngay nhé!

1.Soạn bài Những đứa con trong gia đình phần tác giả 

1.1 Cuộc đời tác giả Nguyễn Thi

 

-  Tác giả Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, ông sinh ngày 15 tháng 5 năm 1928 và mất ngày 9 tháng 5 năm 1968. Ông là người con của huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 

- Bên cạnh bút danh Nguyễn Thi được nhiều người biết đến thì ông còn sử dụng một bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn. 

- Ông mồ côi cha từ năm 10 tuổi, mẹ đi bước nữa nên tuổi thơ của Nguyễn Thi phải chịu nhiều khó khăn, vất vả và tủi cực.

- Năm 1943, ông vào Sài Gòn cùng một người anh, đến năm 1945, ông tham gia cách mạng và gia nhập vào lực lượng vũ trang Việt Minh. 

- Nguyễn Thi là điển hình của nhà văn vừa cầm bút và cầm súng chiến đấu trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, giống như rất nhiều nhà văn, nhà thơ khác.

- Năm 1945, Nguyễn Thi công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân Đội và sử dụng bút danh Nguyễn Ngọc Tấn trong thời gian này

- Năm 1962, ông quay trở về miền Nam tham gia cuộc chiến và hy sinh ở mặt trận Sài Gòn trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. 

- Năm 2000, Nguyễn Thi được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. 

- Năm 2011, ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. 

1.2 Sự nghiệp và đặc điểm sáng tác 

- Hoàn cảnh cuộc đời nhiều khó khăn và éo le đã tạo lên một Nguyễn Thi hiểu đời, hiểu người sâu sắc và tâm hồn giàu suy tư. Mặc dù là người Bắc nhưng ông đặc biệt gắn bó với người dân Nam Bộ và chính hiện thực chiến đấu ác liệt nơi đây là nguồn cảm hứng sáng tác lớn nhất trong ông. 

- Các sáng tác của Nguyễn Thi phần lớn viết về người dân Nam Bộ 

- Ngôn ngữ sử dụng trong các tác phẩm của ông vô cùng phong phú, giàu tạo hình, đậm chất miền Nam.
- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thi bao gồm nhiều tác phẩm từ thơ đến truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký như: 

  • Tập thơ “Hương đồng nội” gồm 20 bài xuất bản năm 1950

  • Tập truyện ngắn “ Trăng sáng” gồm 7 truyện xuất bản năm 1960

  • Tập truyện ngắn “Đôi bạn” gồm 7 truyện xuất bản năm 1962

  • Tập tiểu thuyết “ Người mẹ cầm súng” xuất bản năm 1965

  • Tập “ Truyện và ký Nguyễn Thi” xuất bản năm 1978 sau khi ông đã mất. 

 

2. Soạn bài Những đứa con trong gia đình phần tác phẩm 

1.1 Hoàn cảnh sáng tác 

- Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình được Nguyễn Thi viết vào tháng 2/1966. Đây là thời điểm chiến đấu ác liệt nhất khi ông công tác tại tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. 

- Sau này, truyện ngắn được in trong tập “ Truyện và kí Nguyễn Thi” của NXB Văn học Giải phóng năm 1978 

1.2 Bố cục

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình được chia bố cục thành 2 phần: 

- Phần 1: Từ đầu đến đoạn “những mũi lê nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong”: Việt bị thương ở chiến trường và những lần ngất đi tỉnh lại do vết thương dày vò.

- Phần 2: Phần còn lại: Việt nhớ về những ngày còn ở nhà, trước khi tham gia chiến đấu. 

>> Mời bạn tham khảo: Soạn bài Ngữ Văn 12 - Tổng hợp đầy đủ chương trình Văn 12

1.3 Ý nghĩa nhan đề 

- Nhan đề “ Những đứa con trong gia đình” không chỉ thông báo về vị trí của những nhân vật chính trong nhà mà còn mang nhiều ý nghĩa khái quát sâu xa. Câu chuyện kể về dòng hồi tưởng của Việt khi bị thương ở chiến trường. Lúc này, Việt nhớ về gia đình của mình nhưng thực tế gia đình này đã không còn khi cha mẹ bị quân thù giết hại, ngôi nhà thì cho hợp tác xã mượn làm trường học, bàn thờ cũng mang đi gửi nhà chú Năm, còn hai chị em Việt đều tham gia chiến đấu. Gia đình mà nhan đề nhắc đến chỉ là những hồi tưởng của bản thân Việt.
=> Nhan đề gợi tả những ý nghĩa sâu sắc về tình cảm của những người con. 

- Nhan đề còn thể hiện được mối quan hệ của những người con cùng với truyền thống gia đình khi đi tìm hiểu về cội nguồn. 

- Nhan đề còn giúp người đọc liên tưởng đến nhiều gia đình khác trên mảnh đất Việt Nam, là những tế bào nhỏ tạo lên truyền thống tốt đẹp của dân tộc. 

1.4 Tóm tắt tác phẩm 

Chiến và Việt là hai chị em trong một gia đình gặp nhiều đau khổ và mất mát trong thời kỳ chiến tranh. Cha của hai chị em bị quân Pháp chặt đầu, còn mẹ thì bị đại bác của Mỹ bắn chết. Khi hai chị em đến tuổi trưởng thành, cả hai đều muốn giành nhau tham gia tòng quân với mong ước trả thù cho cha mẹ và giành lại độc lập cho tổ quốc.  Nhờ sự giúp đỡ của chú Năm, Việt được tòng quân đánh giặc khi chưa đủ 18 tuổi.Trong một cuộc chiến ác liệt ở rừng cao su, Việt đã tiêu diệt được một xe bọc thép đầy quân Mỹ và 6 tên Mỹ đi lẻ. Nhưng bản thân Việt cũng bị thương nặng, bị thất lạc với đồng đội và một mình phải nằm lại ở chiến trường đầy chết chóc. Khi nằm lại nơi đây, Việt tỉnh dậy và ngất đi nhiều lần do vết thương. Mỗi lần tỉnh táo lại, Việt lại chìm vào những hồi tưởng về gia đình của mình về cha mẹ, về chú Năm, về chị Chiến. Việt nhớ về cảnh hai chị em tranh nhau đi tòng quân, rồi những chuyện như bàn giao công việc trong nhà, việc khiêng bàn thờ ba má sang gửi chú Năm. Đan xen trong những ký ức đó chính là tình cảm gia đình sâu sắc của Việt dành cho chị Chiến, Việt thương chị rất nhiều. Sau 3 ngày, Việt được đồng đội tìm thấy và đưa về chăm sóc. Sau khi hồi phục, Việt muốn viết thư kể cho chị nghe nhưng tự cảm thấy những việc mình làm chưa phải quá to lớn nên không biết bắt đầu từ đâu.

 

 

3. Hướng dẫn Soạn bài Những đứa con trong gia đình 

3.1 Câu 1 SGK Ngữ Văn 12 tập 2 

Đoạn trích Những đứa con trong gia đình được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật nào? Cách trần thuật này có tác dụng như thế nào đối với kết cấu truyện và khắc họa tính cách nhân vật.

- Truyện những đứa con trong gia đình được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật Việt

- Tác dụng: Tác giả Nguyễn Thi sử dụng điểm nhìn này sẽ giúp khai thác được toàn bộ dòng hồi tưởng của Việt tự nhiên hơn. Điều này giúp cho câu chuyện trở nên sinh động và hấp dẫn hơn rất nhiều. 

3.2 Câu 2 SGK Ngữ Văn 12 tập 2 

Tác phẩm kể chuyện một gia đình nông dân Nam Bộ. Truyền thống nào đã gắn bó những con người trong gia đình với nhau?

- Truyền thống đã gắn bó những con người trong gia đình lại với nhau chính là truyền thống yêu nước và căm thù những điều xấu xa mà quân thù gây ra đối với Đất nước. Ngoài ta chính tấm lòng thủy chung với cách mạng và mong muốn chiến đấu bảo vệ đất nước đã gắn bó các thành viên trong gia đình lại với nhau. 

3.3 Câu 3 SGK Ngữ Văn 12 tập 2 

Phân tích và so sánh tích cách của nhân vật Chiến, Việt để làm rő sự tiếp nối truyền thống của gia đình của những người con.

a. Điểm giống nhau giữa tính cách của hai chị em Chiến và Việt: 

- Chiến và Việt đều là những thế hệ nối tiếp trong truyền thống yêu nước của gia đình

- Cả hai chị em đều có tình yêu thương gia đình sâu nặng

- Chị em Chiến Việt đều có tình yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm và một lòng với cách mạng. 

b. Điểm khác nhau giữa hai nhân vật Chiến và Việt:

- Chị Chiến là người con gái đảm đang, chu toàn và tháo vát nhưng cũng rất can đảm:  

  • Sự đảm đang và tháo vát: Trước khi đi tòng quân, chị lo lắng cho cả những người còn sống qua chi tiết “viết thư cho chị Hai”, “ gửi thằng em út” và cả người đã khuất qua chi tiết gửi bàn thờ cha mẹ nhờ chú Năm chăm nom. Chị sắp xếp công việc nhà đâu ra đấy, gửi nhà cho hợp tác xã mượn làm trường dạy học, đồ đạc và hai công mía trong nhà gửi cho chú, còn ruộng đất thì gửi cho bà con cày cấy. 

  • Thừa hưởng từ mẹ thói quen: Thể hiện qua cử chỉ của chị, cách chị vun vén cho ngôi nhà và em trai giống hệ như hình bóng của người mẹ. 

  • Sự can đảm: “ làm thân con gái… giặc còn thì tao mất” 

- Việt ngây thơ, hồn nhiên 

  • Tác giả đã miêu tả những nét hồn nhiên của con trai mới lớn: Vẫn còn sự hiếu động và ngây thơ qua các chi tiết “ tranh giành phần hơn với chị”, “ thích đi câu cá”, “ đi bắn chim”...

  • Đêm trước ngày tòng quân: Việt vẫn còn giữ nguyên sự vô tư khi “ lăn kềnh ra cười” rồi “ chụp con đom đóm trong tay” rồi ngủ quên lúc nào không hay

  • Tình cảm yêu thương chị :Lúc nào cũng muốn giấu chị làm của riêng mình 

  • Khi bị thương ở chiến trường: Vẫn sợ ma, khi gặp lại anh em thì vừa khóc vừa cười. 

- Việt cũng là người rất dũng cảm, kiên cường

  • Khi còn bé dám đi cùng má để đòi lại đầu của ba, còn dám xông vào đá kẻ đã giết hại ba của mình.

  • Khi lớn lên: Nhất quyết đòi tòng quân để trả thù cho bố mẹ, khi đi chiến đấu thì dũng cảm dùng pháo phá một xe bọc thép. Bản thân bị thương nhưng lúc nào cũng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu

=> Hai chị em Chiến và Việt chính là hình ảnh đại diện cho thế hệ trẻ miền Nam yêu nước trong những năm tháng kháng Mỹ đầy khó khăn gian khổ. 

3.4 Câu 4 SGK Ngữ Văn 12 tập 2 

 Phân tích những biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong đoạn trích này?

Khuynh hướng sử thi trong đoạn trích “ Những đứa con trong gia đình” được thể hiện qua: 

- Đề tài của truyện: Đề tài chiến tranh

- Chủ đề: Viết về những người con trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Sự gắn bó giữa các thành viên trong gia đình gắn liền với tình yêu đất nước, yêu quê hương và tạo ra được sức mạnh to lớn, tạo động lực đấu tranh trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. 

- Nhân vật: Hình ảnh của Việt được khắc họa theo khuynh hướng của sử thi

- Ngôn ngữ và giọng điệu: Màu sắc Nam Bộ đậm nét, giọng điệu ca ngợi và hào hùng. 

3.5 Câu 5: SGK Ngữ Văn 12 tập 2 

Đối với anh/chị, đoạn văn nào cảm động nhất? Vì sao? 

- Đoạn văn cảm động nhất là cảnh chị em Việt khiêng bàn thờ sang gửi nhà chú Năm trước khi lên đường chiến đấu. 

- Lý do: Đoạn văn ghi dấu sự trưởng thành của Việt, lần đầu tiên Việt cảm thấy thương chị và trách nhiệm với mối thù giết cha mẹ, cướp nước của giặc Mỹ. Hình ảnh này còn tượng trưng cho sự trưởng thành của cả hai chị em, khi cả hai đã có thể gánh vác công việc gia đình và tiếp nối truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung với cách mạng được truyền lại. 

4. Soạn bài Những đứa con trong gia đình phần luyện tập 

Phân tích đoạn đối thoại giữa Việt và Chiến trước ngày nhập ngũ? Tính cách của hai nhân vật thể hiện như thế nào qua đoạn đối thoại này?

Phân tích đoạn đối thoại giữa nhân vật Việt và chị Chiến ta thấy được: 

a. Chị Chiến

- Cách xưng hô: Ban đầu, chị xưng hô với Việt là “ mày - tao”, nhưng dần dần đã chuyển sang thành “ chị em mình”, “ chị - em”

- Giọng điệu: Mạnh mẽ, quyết đoán, rành mạch và rő ràng từng chữ “ nếu giặc còn thì tao mất” 

- Vừa nói chuyện vừa trằn trọc suy nghĩ, cựa mình nghĩ ngợi lung lắm

- Tôn trọng em trai, trước khi làm chuyện gì đều hỏi qua ý kiến của em, không tự ý sắp xếp mọi chuyện. 

=> Chị Chiến hiện lên với hình ảnh cô gái đảm đang, biết lo nghĩ và xoay xở, xứng đáng là người chị gương mẫu thay cha mẹ chăm sóc em trai và nhà cửa. Chị Chiến được thừa hưởng toàn bộ những phẩm chất của người mẹ đã mất. 

b. Việt 

- Cách xưng hô: “tôi - chị” 

- Giọng điệu: cự nự với chị, vừa nói chuyện với chị nhưng vẫn đùa nghịch, mọi chuyện trong nhà đều ỷ lại cho chị “ tôi nói chị tính sao cứ tình mà” rồi ngây thơ hỏi chị những câu như “hồi đó má dặn chị vậy hả”

- Tâm trạng: Háo hức vui mừng khi được đi tòng quân đánh giặc, thuận theo sự sắp xếp của chị, đã mường tượng ra những điểm giống nhau giữa mẹ và chị, cảm thấy nhớ mẹ… 

=> Nhân vật Việt được xây dựng như một chàng trai vừa mới trưởng thành, vẫn còn giữ lại chút gì đó trẻ con, sự vô tư, vô lo. 

 

 

Hy vọng qua hướng dẫn soạn bài Những đứa con trong gia đình, các em có thể chuẩn bị tốt bài học trên lớp. Bài soạn trên được thực hiện bởi đội ngũ vuihoc, nếu bạn muốn tham khảo thêm nhiều bài viết về môn Ngữ Văn 12 hay các môn học khác thì hãy truy cập trang web vuihoc.vn hàng ngày nhé! 

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-nhung-dua-con-trong-gia-dinh-ngu-van-12-1912.html

 

 

Tovább

Soạn bài nhân vật giao tiếp

Trong giao tiếp hằng ngày luôn luôn xuất hiện những nhân vật giao tiếp. Đó là những đối tượng vô cùng quan trọng đối với những đoạn hội thoại hoặc đối thoại. Đây là phần kiến thức quan trọng cần phải nắm được vậy nên VUIHOC đã viết bài này giúp các em soạn bài nhân vật giao tiếp và từ đó hướng dẫn các câu hỏi luyện tập.

1. Soạn bài nhân vật giao tiếp

1.1 Câu 1: SGK Ngữ văn 12/2 trang 18

Đề bài: Đọc đoạn trích dưới đây và phân tích dựa vào các câu hỏi được đưa ra phía dưới:

Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!

Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:

-  Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!

Thị cong cớn:

-  Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?

Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:

-  Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!

Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.

-   Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.

                                                                                                                     (Kim Lân, Vợ nhặt)

a) Trong những hoạt động giao tiếp phía trên, các nhân vật có đặc điểm gì về tuổi tác, giới tính và tầng lớp xã hội?

Trong những hoạt động giao tiếp phía trên, các nhân vật có những đặc điểm sau đây:

Các nhân vật giao tiếp trong đoạn trích trên là Tràng, mấy cô gái và nhân vật “thị”

  • Về lứa tuổi: Họ đều là những người thanh niên trẻ tuổi

  • Về giới tính: Tràng giới tính nam, còn lại là giới tính nữ

  • Về tầng lớp xã hội: Họ đều là những người dân lao động sống một cuộc sống nghèo đói.

b) Các nhân vật giao tiếp đã thay đổi vai người nói, người nghe và luân phiên lượt lời như thế nào? Lượt lời đầu tiên của nhân vật “thị” muốn hướng đến ai?
Các nhân vật giao tiếp đã thay đổi vai người nói, người nghe và luân phiên lượt lời như dưới đây:

Lúc đầu: Hắn (chỉ nhân vật Tràng) là người nói còn mấy cô gái là người nghe.
Tiếp theo: Mấy cô gái là người nói còn nhân vật Tràng và "thị" là người nghe.
Tiếp theo: "Thị" là người nói, còn nhân vật Tràng (chủ yếu) và mấy cô gái là người nghe.
Tiếp theo: Tràng là người nói còn "Thị" là người nghe.
Cuối cùng: "Thị" là người nói còn Tràng là người nghe.

c) Các nhân vật giao tiếp phía trên có bình đẳng về vị thế ở trong xã hội hay không?

Các nhân vật giao tiếp phía trên vô cùng bình đẳng về vị thế ở trong xã hội (họ đều là những người dân lao động cùng có cuộc sống nghèo khổ)

d) Họ có quan hệ như thế nào (xa lạ hay thân thiết) khi tham gia cuộc giao tiếp không?

Khi tham gia vào cuộc giao tiếp, các nhân vật giao tiếp phía trên có quan hệ vô cùng xa lạ.

e) Những đặc điểm về vị thế xã hội, lứa tuổi, giới tính, quan hệ thân sơ, nghề nghiệp chi phối như thế nào tới lời nói của các nhân vật?

Những đặc điểm về vị thế xã hội, lứa tuổi, giới tính, quan hệ thân-sơ, nghề nghiệp,... đã góp phần chi phối lời nói của nhân vật trong quá trình giao tiếp. Ban đầu còn chưa quen nên giao tiếp chỉ mang tính chất là trêu đùa và thăm dò. Nhưng dần dần, khi đã quen và mạnh dạn hơn do cùng lứa tuổi, bình đẳng về vị thế ở trong xã hội, lại cùng cảnh ngộ nghèo khổ nên những nhân vật giao tiếp tỏ ra hết cực thoải mái.

1.2 Câu 2: SGK Ngữ văn 12/2 trang 20

Đề bài: Đọc đoạn trích dưới đây và phân tích theo những câu hỏi được nêu phía dưới:

Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
- Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?

   Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:

- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?

   Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng. Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:

- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?

  Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:

- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mầy đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.

   Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?

   Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:

- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.

   Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.

   Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:

- Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.

    Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:

- Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người ta đun nước, mau lên!

                                                                                                                          (Nam Cao, Chí Phèo)


a) Trong đoạn trích phía trên có tất cả bao nhiêu nhân vật giao tiếp và họ là ai? Trường hợp nào Bá Kiến chỉ nói với một người nghe duy nhất, trường hợp nào Bá Kiến lại nói với nhiều người nghe?

Các nhân vật giao tiếp xuất hiện trong đoạn trích: nhân vật Bá Kiến, mấy bà vợ của Bá Kiến, dân làng và nhân vật Chí Phèo.

Bá Kiến nói với một người nghe duy nhất trong trường hợp nói với Chí Phèo. Còn lại, khi nói với mấy bà vợ, hay dân làng, với Lí Cường, Bá Kiến nói cho nhiều người nghe (trong đó bao gồm cả Chí Phèo).

b) Vị thế trong xã hội của Bá Kiến khi so sánh với mỗi người nghe như thế nào? Điều này chi phối tới cách nói và lời nói của nhân vật Bá Kiến ra sao?

Vị thế xã hội của Bá Kiến đối với từng người nghe:

+ Với mấy bà vợ thì Bá Kiến có vai trò là chồng (chủ gia đình) nên được "quát".

+ Với dân làng thì Bá Kiến là cụ lớn, thuộc tầng lớp cao nên lời nói có phần tôn trọng (các ông, các bà) nhưng thực chất thì đuổi (về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?).

+ Với Chí Phèo thì Bá Kiến vừa có vai trò là ông chủ cũ, vừa là kẻ đã chính tay đẩy Chí Phèo vào tù, kẻ mà lúc bấy giờ Chí Phèo đến để "ăn vạ". Bá Kiến vừa phải thăm dò, vừa phải dỗ dành, lại vừa có vẻ đề cao và coi trọng.

+ Với Lí Cường thì Bá Kiến là người cha, cụ quát con mình nhưng thực chất là để xoa dịu cho nhân vật Chí Phèo.

c) Đối với Chí Phèo thì Bá Kiến đã thực hiện chiến lược giao tiếp với mình như thế nào? Hãy phân tích chi tiết chiến lược đó theo những bước dưới đây:

- Bá Kiến đuổi tất cả mọi người về, chỉ đối thoại với riêng Chí Phèo

+ Nói với mấy bà vợ: Các bà đi vào nhà, đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì! 

+ Rồi quay sang đám người làng với giọng dịu hơn một chút “cả các ông, các bà nữa, về thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?”

=> Mục đích của câu nói này là để đuổi khéo mọi người, để cô lập Chí Phèo cho dễ dàng nói chuyện và đối phó được với Chí Phèo dễ dàng hơn.

- Bá Kiến giảm cơn tức giận của nhân vật Chí Phèo bằng cả hành động lẫn lời nói.

+ Bá Kiến đã hạ nhiệt cơn giận của Chí Phèo bằng những lời lẽ ngọt ngào cùng cách xưng hô tâng bốc: Anh Chí ơi! 

+ Rồi xưng hô thân mật: cái anh này, tiếp đến là cách nói như xưng hô với người trong nhà bằng ngôi thứ nhất số nhiều: ta (để phân biệt rő ràng với người ngoài). Bên cạnh cách xưng hô như vậy là những lời nói vô cùng nhẹ nhàng, đầy khích lệ và động viên cùng với hành động thân thiết như người quen thân lâu ngày rồi mới gặp.

=> Bá Kiến đã nâng vị thế của Chí Phèo lên ngang hàng với mình và nhận Chí Phèo là người họ hàng. Cách nâng vị thế trong giao tiếp làm cho Chí Phèo cảm thấy hãnh diện vì được ngang hàng với một gia đình danh giá trong làng, chẳng mấy chốc mà hắn quên đi ý định ban đầu.

-  Đòn cuối cùng chính là Bá Kiến đã mắng Lí Cường với một giọng điệu đắc thắng để tôn Chí Phèo lên và Bá Kiến đã đạt được mục đích dập tắt đi ngọn lửa căm thù bên trong Chí Phèo, bóp chết ý định trả thù của Chí Phèo khi còn trong trứng nước.

d) Với chiến lược giao tiếp như phái trên thì Bá Kiến đạt đươc mục đích và hiệu quả giao tiếp hay không? Những người nghe trong cuộc hội thoại ấy với Bá Kiến có phản ứng ra sao khi nghe được những lời nói của Bá Kiến?

Bá Kiến đã đạt được mục đích cũng như hiệu quả giao tiếp:

Những người nghe trong đoạn hội thoại đều nghe răm rắp theo Bá Kiến.

Chí Phèo khi đến thì hung hãn nhưng cuối cùng cũng bị làm cho khuất phục, thấy lòng mình nguôi nguôi 

2. Soạn bài nhân vật giao tiếp: Hướng dẫn luyện tập 

2.1 Bài 1: SGK Ngữ văn 12/2 trang 21

Đề bài: Phân tích sự chi phối của vị thế trong xã hội ở những nhân vật đối với lời nói của họ trong đoạn trích dưới đây:

Anh Mịch nhăn nhó, nói: 

-Lạy ông, ông làm phúc cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông nghị, kẻo ông ấy đánh chết.

Ông lí cau mặt lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa: 

-Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.

-Cắn cỏ, con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông nghị ghét co, cả nhà con khổ.

-Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy không được à?

- Đối với ông nghị con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không vợ con con chết đói.

- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Đứa nào không tuân để quan gắt, tao trình thì rũ tù.

-Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.

-Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao. Hôm ấy mà mày không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.

                                                                                                                            (Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)

Hai nhân vật đang giao tiếp trong đoạn trích phía trên là anh Mịch - một người nông dân nghèo khổ cùng với lí trưởng - người có chức chức có quyền ở trong làng. Vì vị thế xã hội có sự chênh lệch và vị thế xã hội đó đã chi phối các nhân vật thể hiện ở mọi cử chỉ và hành động. 

Vị thế xã hội:

  • Anh Mịch - kẻ bên dưới người bị bắt phải đi xem đá bóng

  • Lí trưởng - kẻ bề trên là người thừa lệnh quan bắt người phải đi xem đá bóng

Chính vị thế như thế cũng chi phối hai nhân vật trong từng cử chỉ, lời nói và cả hành động: Anh Mịch thì giọng nói thể hiện sự nài nỉ, van xin và nhún nhường (con lạy ông, van ông, cắn cỏ con lạy ông,..); trong khi đó ông lí thì lại vô cùng hách dịch, quát mắng (xưng hô mày tao, sử dụng câu lệnh,..) 

2.2 Bài 2: SGK Ngữ văn 12/2 trang 21

Phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế trong xã hội, giới tính văn hóa, nghề nghiệp, ... của những nhân vật giao tiếp với đặc điểm thể hiện trong lời nói của họ ở đoạn trích dưới đây:

Bỗng dưng tất cả dừng lại, dưới cây đũa thần, hay đúng hơn dưới ngọn roi gân bò mà viên đội sếp Tây vừa vung lên, vừa quát tháo:" cái giống tởm nhà mày! có cút đi không cái giống tởm!". Thế là cái đám đông lúc nhúc đứng sắp hàng, vừa yên lại vừa lặng, hai bên lề đường.Gì thế nhỉ? xe ô tô quan Toàn quyền sắp đi qua đấy...Xe kia rồi! Lại cả ông Toàn quyền đây rồi!

- Quan có cái mũ hai sừng trên chóp sọ! - Một chú bé con thì thầm.

-Ồ! Cái áo dài đẹp chửa! -- Một chị con gái lớn thốt ra.

- Ngài sắp diễn thuyết đấy!- Một anh sinh viên kêu lên

-Đôi bắp chân ngài bọc ủng- Một bác cu-li xe thở dài.

-Rậm râu, sâu mắt - Một nhà nho lẩm bẩm

Thế là ô tô ông Va-ren chạy qua giữa hai hàng rào con người, lưng khom lại khi ngài đến gần. 

(Nguyễn Aí Quốc, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu)

+ Viên đội sếp Tây: vị thế trong xã hội là người có quyền có thế, nghề nghiệp là cảnh sát, giới tính nam, văn hóa kém cỏi vì những lời thoại vô cùng hống hách lại có thái độ phân biệt chủng tộc.

+ Nhân vật đám đông: vị thế trong xã hội thấp kém, văn hóa cũng thấp nên những lời thoại đều mang tính hiếu kì.

+ Chú bé con vẫn còn ngây thơ nên chỉ chú ý tới chi tiết lạ mắt của viên Toàn quyền và cũng chỉ xem xét đối tượng ở bên ngoài.

+ Chị con gái, ở tuổi hồn nhiên, yêu thích làm đẹp nên chỉ quan tâm tới những bộ trang phục.

+ Anh sinh viên là nhân vật có trình độ văn hóa, quan tâm tới những hoạt động trong xã hội và chính trị nên suy nghĩ về việc làm của viên Toàn quyền.

+ Bác cu-li xe vô cùng vất vả với nghề nghiệp của mình, văn hóa ở mức thấp nên nhìn những đối tượng có liên quan tới chuyện làm ra miếng cơm manh áo của mình.

+ Nhà nho học vấn uyên thâm nên lại có cái nhìn vô cùng sâu sắc: nhìn bên ngoài có thể đánh giá được bản chất bên trong của đối tượng đó.
Như vậy: Lời thoại của những nhân vật giao tiếp thường phản ánh đúng trình độ học vấn, văn hóa, cũng như lứa tuổi, giới tính và nghề nghiệp của nhân vật ấy.

2.3 Bài 3: SGK Ngữ văn 12/2 trang 22 

Đọc đoạn trích phía dưới và trả lời những câu hỏi được nêu ở dưới đây:

Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang: 

- Bác trai đã khá rồi chứ?

- Cảm ơn cụ nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý vẫn còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.

- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Cứ nằm đấy, chốc nữa họ lại vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm rề rề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn. 

- Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì.

- Thế phải giục anh ấy ăn mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy!

Rồi bà lão lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn) 

a) Nhân vật bà lão và nhân vật chị Dậu có vị thế xã hội và quan hệ với nhau như thế nào? Điều đó đã chi phối tới lời nói của cả hai nhân vật này ra sao? 

Quan hệ giữa nhân vật bà lão hàng xóm và nhân vật chị Dậu là quan hệ hàng xóm láng giềng thân thiết với nhau.

Điều đó đã chi phối tới lời nói và cách nói của 2 người một cách thân mật:

Bà lão: bác trai, anh ấy, ...

Chị Dậu: cảm ơn, nhà cháu, cụ, ...

b) Phân tích quá trình tương tác về hành động nói giữa lượt lời của hai nhân vật tham gia giao tiếp trong đoạn trích trên.

Sự tương tác về hành động và ngôn ngữ giữa các lượt lời của 2 nhân vật này:

Hỏi thăm - cảm ơn

Đề nghị - lĩnh hội

Đề nghị - (đồng ý)

c) Lời nói và cách nói của hai nhân vật đó cho thấy được tính cách cũng như cách ứng xử của hai người có những nét văn hóa đáng tôn trọng ra sao?

Đoạn hội thoại cho thấy rằng cách ứng xử của cả hai nhân vật tuy thân mật nhưng không suồng sã do tính chất quan trọng của nội dung đề tài và nhân vật Chị Dậu khi nói chuyện với người bề trên (người hơn tuổi) thì phải lễ phép. Văn hóa ứng xử ấy vô cùng đẹp, đáng tôn trọng. Họ là những người nông dân rất giàu tình cảm và vô cùng trách nhiệm.

 

Khi nhắc đến những đoạn đối thoại, hội thoại trong giao tiếp không thể không nhắc tới nhân vật giao tiếp. Đây là kiến thức quan trong mà mỗi em học sinh đều phải nắm được để có thể áp dụng được không chỉ trong bài thi mà còn áp dụng được trong đời sống. Vì vậy, VUIHOC đã giúp các em tìm hiểu dễ dàng kiến thức này thông qua việc hướng dẫn soạn bài nhân vật giao tiếp và các bạn tham khảo Soạn Văn 12 khác. Các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học cùng các thầy cô VUIHOC để có thêm kiến thức về môn văn nói riêng và các môn học khác nói chung nhé!

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-nhan-vat-giao-tiep-1880.html

Tovább

Soan bai nghi luan van hoc

Nghị luận văn học là dạng bài thi rất quan trọng và luôn có mặt trong các kỳ thi học sinh giỏi và THPT Quốc gia môn Ngữ Văn. Bài viết này sẽ giúp các em ôn tập lại kiến thức về nghị luận văn học để các em nắm được những yêu cầu và thao tác trong khi làm bài. Từ đó, hướng dẫn chi tiết cách soạn bài Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học thông qua một số đề có sẵn.

1. Ôn tập kiến thức nghị luận văn học 

- Khái niệm: Văn nghị luận là một thể loại văn được viết với mục đích xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Văn nghị luận cần phải chứa những luận điểm rő ràng, có những dẫn chứng và lí lẽ thuyết phục được người đọc, người nghe. Những tư tưởng và quan điểm trong bài văn nghị luận phải được xây dựng để hướng tới cách giải quyết những vấn đề được đặt ra và tồn tại trong cuộc sống, xã hội, như vậy mới có ý nghĩa.

- Những yêu cầu cần đáp ứng khi làm văn nghị luận: Phải viết đúng hướng, theo một trật tự nhất định, phải mạch lạc, trong sáng và sống động, có tính sáng tạo sẽ làm bài văn càng trở nên hấp dẫn. 

- Những thao tác chính trong bài văn nghị luận bao gồm: giải thích, bình luận, chứng minh, bác bỏ, phân tích, so sánh,… 

- Khi làm một bài văn nghị luận văn học thì cần phải lưu ý đến những yêu cầu sau đây:  

  • Phải nắm chắc được cách sử dụng của các thao tác nghị luận về một đoạn trích, đoạn thơ, bài thơ và tác phẩm văn xuôi. 

  • Cần củng cố lại những kiến thức cơ bản trong mỗi tác phẩm văn học như: tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, giá trị về nội dung, giá trị về nghệ thuật và giá trị về tư tưởng.  

  • Đối với thơ thì ta cần lưu ý đến mặt hình thức thể hiện (như hình ảnh, cấu trúc, nhịp điệu, biện pháp tu từ,..). 

  • Đối với các tác phẩm văn xuôi: cần phải chú ý đến phần cốt truyện, các tuyến nhân vật, tình huống, các dẫn chứng cần thật sự chính xác, làm nổi bật lên giá trị về hiện thực, giá trị về nhân đạo, tình tiết trong truyện

 

2. Hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học

2.1 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 1

Đề bài: Trong một bức thư luận bàn về chủ đề văn chương, Nguyễn Văn Siêu đã viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy đưa ra những nhận xét và phát biểu về quan niệm trên.

Bài làm cần có những nội dung dưới đây:

- Phân tích, giải nghĩa hai loại văn chương: "chuyên chú ở văn chương" và loại "chuyên chú ở con người".

   + Thế nào được gọi là văn chương "chuyên chú ở văn chương"?

Đó là một loại văn chương chỉ biết đến nó, tức là coi mọi hình thức về mặt nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác cũng chỉ chăm lo tới cái đẹp hình thức mà không mấy quan tâm đến nội dung tư tưởng và không bận tâm đến đời sống và vận mệnh của con người, không có ý thức, trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội.

   + Thế nào được gọi là văn chương "chuyên chú ở con người"?

Đó là một loại văn chương được quan tâm ưu tiên đến cuộc sống của con người và vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương nằm ở chỗ mà nó tạo lợi ích cho cuộc đời.

- Nêu quan điểm của bản thân về quan niệm của Nguyễn Văn siêu:

 + Vì sao loại văn chương đáng thờ lại là loại "Chuyên chú ở con người" chứ không phải là loại "Chuyên chú ở văn chương"?

Nguyễn Văn Siêu muốn thể hiện giá trị cao đẹp của văn chương. Nếu văn chương mà không quan tâm đến khía cạnh con người thì văn chương đã tự đánh mất giá trị của mình. Áng văn hay phải gọi là áng văn tâm huyết của con người cầm bút. Cái tâm sẽ thường nuôi dưỡng và làm phát huy cái tài.

- Liên hệ tới những nhà văn cũng có quan điểm giống như Nguyễn Văn Siêu.

Gợi ý:

Mỗi người nghệ sĩ đều theo phong cách nghệ thuật cá tính sáng tạo cùng tư tưởng thẩm mĩ riêng mà có những quan điểm riêng trong văn chương. Có người nghĩ rằng văn chương không phải được nhào nặn từ người thợ khéo tay thực hiện dựa trên một số kiểu mẫu được đưa cho, mà văn chương phải là sự khởi nguồn chưa một ai từng làm và sáng tạo ra những gì chưa có trước đấy. Có người lại nghĩ rằng văn chương phải là sự thoát li nhưng cũng có những người nghĩ rằng văn chương phải là những sự việc có thật ở đời, phải là những sự đau khổ bộc lộ ra từ kiếp lầm than. Với Nguyễn Văn Siêu, ông cho rằng “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Nguyễn Văn Siêu đã bày tỏ quan niệm của mình với văn chương. Theo ông thì văn chương được chia thành hai loại là văn chương không đáng thờ và văn chương đáng thờ. Văn chương không đáng thờ theo Nguyễn Văn Siêu là loại văn chỉ chuyên chú ở văn chương, còn văn chương đáng thờ với ông là loại chuyên chú ở con người.

Vậy chúng ta sẽ hiểu thế nào về văn chương mà chỉ chuyên chú ở văn chương? Văn chương chuyên chú ở văn chương chính là loại văn chương chỉ tập trung vào hình thức mà không có nhiều ý nghĩa đối với con người. Những tác phẩm như thế giống như một bài hát thoạt đầu có vẻ dễ nghe và bắt tai nhưng những ngôn từ trong nó thì lại chẳng mang ý nghĩa gì, chỉ là một vài ba câu từ ghép lại hết sức đơn giản và tẻ nhạt. Sức mạnh của văn chương cũng đã được nhiều người khác khẳng định, Thạch Lam đã từng ví văn chương như “một thứ khí giới thanh cao mà đắc lực” nó giúp cho tâm hồn của con người được thanh lọc và cũng vạch trần những điều giả dối trong xã hội. Thế nhưng nếu văn chương không có sự chuyên chú ở con người thì đó không phải là văn chương thực thụ nữa. Vì văn chương cũng có chức năng về giáo dục và nhận thức mà mặt thẩm mỹ cũng rất quan trọng đối với con người.

Thực tế cho thấy, khi một xã hội phát triển đồng nghĩa với những câu chuyện ngắn trên mạng cũng được đăng tràn lan. Ở đó ta có thể bắt gặp rất nhiều những câu chuyện về chủ đề tình yêu, tình bạn hoặc tình cảm gia đình. Nhưng cách viết của những câu chuyện ấy chỉ chú trọng vào hình thức văn bản mà không quan tâm đến nội dung và ý nghĩa của nó. Vả lại trước khi sáng tác một tác phẩm hay làm bất cứ một việc gì thì việc đầu tiên chúng ta cần phải xác định chính là đối tượng mà tác phẩm ấy muốn đề cập tới là ai. Nếu không xác định được điều này thì một tác phẩm văn chương được viết ra sẽ chẳng dành cho ai, chẳng biết sẽ phù hợp với độ tuổi nào thì đó không phải là loại văn chương để con người cần tôn thờ.Thể loại văn chương như vậy chỉ dựa vào thị hiếu của con người, nó cực kỳ sáo rỗng.

Ngược lại chúng ta có thể ghi nhớ rằng văn chương đáng được tôn thờ chính là văn chương chuyên chú ở con người. Đó là những tác phẩm vừa có giá trị nghệ thuật lại vừa có giá trị nhân văn thật sự sâu sắc. Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định đúng đắn khi đưa ra một yêu cầu cho những tác phẩm văn chương chân chính đó phải là tiếng nói và hơi thở của cuộc sống đời thường, đặt ra nhiệm vụ cần phản ánh hiện thực vào văn chương. Yêu cầu đó đòi hỏi ở nhà văn một sự tinh tế, nhạy bén và cảm nhận từ các giác quan rất rő ràng để có thể nhập tâm vào cuộc sống với mục đích khám phá tìm tòi. Một tác phẩm ưu tú không đem đến cho người đọc “sự thoát li hay sự quên" mà nó đem tới cho người đọc một hơi thở nhịp đập trong chính cuộc đời để mang lại người đọc những "bài học trông nhìn và thưởng thức" (Theo dòng). "Tác phẩm văn nghệ phải thể hiện sự sống thật hơn là sự sống bình thường cô đọng hơn khái quát hơn cao hơn cuộc sống mà văn là cuộc sống" (Trường Chinh). Người nghệ sĩ cũng cần phải nhận thức và phản ánh được cuộc sống có lý tưởng chứ không phải mình họa cho lý tưởng của cuộc sống. Lý tưởng ở ngay trong cuộc sống chứ không thể tách rời khỏi cuộc sống sẽ khiến người ta phải thoát ly hay quên lãng.

Văn chương chân chính cũng không phải là một công thức sao chép nô lệ hiện thực mà cần thể hiện được sự sáng tạo độc đáo một cách nghiêm túc của người nghệ sĩ. Quá trình sáng tạo ấy là quá trình mà nhà văn gom góp, chắt chiu từng mảnh đời, từng số phận để thu nhận vào mình muôn hình vạn trạng của cuộc sống ngoài kia và trải nghiệm chúng. Chỉ có sự công phu và sáng tạo như thế thì tác phẩm văn chương mới mang lại những linh hồn của cuộc sống và bắt buộc người đọc phải hướng tới cuộc đời đó để tìm kiếm và khám phá say mê. Văn chương chân chính chắc chắn không phải là thứ văn chương dễ dãi để người đọc không hiểu gì. Trong nền văn học Việt Nam chúng ta có rất nhiều các tác phẩm văn chương đáng được tôn thờ vì nó luôn luôn chú trọng vào con người. Ví dụ như tác phẩm “Vợ Nhặt” của Kim Lân được xếp vào văn chương đáng tôn thờ bởi tác phẩm đã ca ngợi được vẻ đẹp về tình thương mến thương, lá lành đùm lá rách của dân tộc ta, nó sẽ luôn tỏa sáng kể cả với hoàn cảnh khó khăn nhất là nạn đói. Điều đó còn thể hiện lên vẻ đẹp của đất nước, sự tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc tốt đẹp, về tinh thần yêu nước và mối căm hận giặc, về tự tôn dân tộc và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong tác phẩm “Đất nước” của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Từ thời Nguyễn Trãi hay Nguyễn Du với những tác phẩm như Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều cho đến giai đoạn Hồ Chí Minh, Nam Cao, Tố Hữu… đều toả sáng bằng những áng văn chương đáng được tôn thờ đến ngàn đời.

Như vậy, có thể thấy rằng Nguyễn Văn Siêu thật sự tinh tế và mang đến những quan điểm đúng đắn về các thể loại văn chương. Để rồi, người đọc cũng như người viết biết cách sáng tạo thêm, lựa chọn ra những tác phẩm văn chương thực sự có ích, mang ý nghĩa nhất định, những tác phẩm văn chương đáng được tất cả các thế hệ tôn thờ. 

2.2 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 2

Đề bài: Nhà văn người Pháp nổi tiếng Buy- phông có viết :”phong cách chính là người”. Anh chị hiểu như thế nào về ý kiến đó?

Cần lưu ý những ý chính dưới đây:

- Phong cách chính là nét độc đáo nhất và cũng là đóng góp riêng của các nhà văn cho đời sống văn học.

- Phong cách bao gồm cả 2 khía cạnh nội dung và nghệ thuật:

   + Độc đáo trong nội dung thể hiện rő ở quan niệm về cuộc sống cũng như con người từ việc chọn ra đề tài, xác định được chủ đề, cách giải thích những vấn đề tồn tại trọng cuộc sống và con người ... .

   + Độc đáo trong nghệ thuật thể hiện rő ở phương thức biểu hiện, ở việc chọn lựa những thủ pháp nghệ thuật, tổ chức có kết cấu, cách sử dụng ngôn ngữ ... .

- Điều thích thú khi đọc một tác phẩm văn học là phát hiện ra những nét độc đáo trong phong cách của từng nhà văn.

Gợi ý:

Mỗi con người sinh ra không phải ai cũng giống hệt nhau, mỗi người đều sở hữu những nét khác biệt tạo nên cái riêng của bản thân mình và cái riêng đó thường được biết đến là phong cách. Như nhà văn người Pháp nổi tiếng Buy-phông có viết: "phong cách chính là người" 

Đúng như vậy! Phong cách chính là người, phong cách của mỗi người phản ánh đúng con người của họ. Vậy chúng ta có thể hiểu phong cách như thế nào? Theo nghĩa hẹp, phong cách được định nghĩa là cách thức riêng biệt của một tác giả, một người nghệ sĩ thể hiện trong sự sáng tạo của một tác phẩm, của một công trình văn hóa và nghệ thuật. Đó là những biểu hiện có tính chất hệ thống về tư tưởng trong nghệ thuật, các đặc trưng mang đến vẻ đẹp thẩm mỹ, ổn định về cả nội dung lẫn hình thức thể hiện để tạo nên giá trị độc đáo cho tác giả. Theo nghĩa rộng, phong cách chính là phong thái, là phong độ và phẩm chất đã trở nên ổn định của một người hoặc một tập thể được thể hiện rő nét trong tất cả những hoạt động sống của chủ thể, tạo được những giá trị riêng, những nét đặc trưng của họ. Phong cách được định nghĩa như một nguyên tắc giúp điều chỉnh hành vi của con người và trở thành một thói quen, nề nếp ổn định kể cả khi suy nghĩ, diễn đạt hay hoạt động thực tế. Đối với mỗi người thì phong cách lại có nét gần với đặc điểm về truyền thống, thói quen, hoặc hoàn cảnh sống quy định, đồng thời cũng mang dấu ấn cá nhân vô cùng rő ràng. Mỗi người, từ thời thơ ấu lớn lên đã mang trong mình một phong cách riêng. Phong cách nào thì cũng mang vẻ tự tin của chính mình. 

Trong cuộc sống hiện nay, chúng ta đã được nghe về rất nhiều phong cách, nào là phong cách sống, phong cách thời trang, phong cách nghệ thuật,...  Nói về khía cạnh thời trang, chúng ta cũng thường được nghe về việc nhận xét phong cách thời trang của một người chẳng hạn như phong cách cá tính, phong cách bánh bèo,.. Theo những lời nhận xét đó thì ta có thể thấy rằng, mỗi người hoặc một tập thể đều lựa chọn cho mình một phong cách thời trang riêng mà họ cảm thấy yêu thích và tự tin nhất khi mặc. Có người lựa chọn phong cách gợi cảm, có người lại thích theo đuổi phong cách dễ thương, có người lại chỉ thích phong cách thật mộc mạc, trong sáng… Không chỉ trong thời trang thường ngày mà ta còn thường bắt gặp phong cách của những người nghệ sĩ, như ca sĩ. Phong cách của từng ca sĩ được thể hiện trong những bài hát mà họ trình bày. Người ca sĩ hát nhạc trữ tình sẽ khác biệt với người hát nhạc rap hay nhạc cách mạng… Mỗi người ca sĩ ngoài gu thời trang, người ta còn nhớ tới họ theo đuổi một dòng nhạc như thế nào nữa. Mà chính những điều này tạo nên phong cách riêng cho một người ca sĩ.

Trong văn học cũng như vậy, phong cách của nhà văn được bộc lộ trên cả hai phương diện là nội dung và nghệ thuật. Trong nội dung, phong cách của nhà văn in đậm bởi những quan niệm về cuộc sống con người, việc chọn ra đề tài, xây dựng nên chủ đề, cách giải thích những vấn đề tồn tại trong cuộc sống con người… Có thể thấy được điều này ở rất nhiều nhà văn nổi tiếng như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Hồ Chí Minh… Nguyễn Tuân thường nhìn nhận mọi sự vật, sự việc dưới một góc độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn đã tìm thấy được sự tài hoa của những nhà Nho hết thời từ những thú vui tao nhã của họ: thả thơ, ngâm vịnh, uống trà,… Sau Cách mạng, nhà văn lại mê đắm vào sự tài hoa của những con người Việt Nam trong công cuộc lao động và sản xuất… Nam Cao lại mang phong cách khác. Trước Cách mạng, ông luôn viết đề tài về những người nông dân Việt Nam nô lệ bị bóc lột, tha hóa về cả tinh thần, nhân phẩm hay những nhà trí thức Việt Nam khổ sở trong nỗi đau khi bị “áo cơm ghì sát đất”… Về nghệ thuật, phong cách của nhà văn cũng được bộc lộ ở đa dạng các phương diện: phương thức biểu hiện, cách lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết cấu và tổ chức ngôn ngữ… Điều này cũng rất dễ phân biệt đặc biệt với những tác giả lớn.

Nhà thơ Tố Hữu thường chọn sáng tác bằng thể thơ lục bát, giọng điệu mang tâm tình ngọt ngào để thể hiện được tình cảm tha thiết và chân thành của nhân vật trữ tình. Nhà văn Nam Cao lại dễ “bị” nhận ra vì lối kể chuyện mang phong cách đảo trình tự tuyến tính hiện đại hay cách liên kết đoạn văn vô cùng tài tình… Mỗi nhà văn lại thể hiện những ý tưởng độc đáo khác nhau trong việc thể hiện các tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi đã đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ… không gì thú vị hơn việc phát hiện ra được những nét đặc sắc trong phong cách của từng tác giả. Những nhà văn, nhà thơ tài ba thực sự mới có thể định hình được phong cách riêng cho mình. Và giữa phong cách của từng tác giả lại có một mối quan hệ chặt chẽ tới bản cá tính của mỗi nhà văn.

Trong văn học, phong cách được bộc lộ sinh động như một thực thể thể hiện được những quan niệm cá nhân trong văn học. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao luôn thể hiện vẻ khách quan, hờ hững với các nhân vật. Ông gọi họ bằng những từ như “y”, “thị”, miêu tả họ với những hình dáng xấu xí, thậm chí là có phần ghê rợn (đặc biệt là hình ảnh những người nông dân). Nhưng phía sau những trang văn lạnh lẽo, miệt thị ấy lại là tấm lòng đồng cảm thấu suốt là tình yêu thương đến nhói buốt của một tâm hồn đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao cũng mang dáng vẻ giống như giọng điệu văn chương của ông thể hiện trong truyện ngắn. Nhắc tới Nam Cao, những người bạn văn nghĩ đến một dáng vẻ vô cùng trầm lặng, ít nói, nhưng thực ra, ẩn sau dáng vẻ phẳng lặng và im ắng ấy là một tinh thần rất sôi nổi và quyết liệt. Chỉ với tính cách mạnh mẽ mới có thể phát biểu rằng: “Sống đã rồi hãy viết”! Phong cách của nhà văn thể hiện rő nét trên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của từng tác giả lại hằn sâu vào lòng người đọc tạo thành mối đồng cảm sâu sắc giữa các nhà văn, nhà thơ với những độc giả chân thành.

Tất cả những phong cách trong các lĩnh vực ấy, khía cạnh về đời sống con người đều thê hiện một điều rằng, phong cách chính là con người. Phong cách đã phản ánh một con người, nó tạo nên sự riêng biệt của con người với nhau, tạo nên sự đa dạng trong cuộc sống. Điều đó một lần nữa khẳng định lại ý kiến của nhà văn người Pháp Buy -phông là chính xác và có ý nghĩa. 

2.3 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 3

Đề bài: Anh chị hãy thể hiện quan điểm của bản thân về ý kiến của nhà văn người Pháp La Bơ-ruy –e:” Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một người nghệ sĩ viết ra"

Cần làm nổi bật một số ý chính sau:

- Tiêu chí dựa vào để đánh giá một tác phẩm hay, theo nhà văn La Bơ-ruy-e chính là giá trị giáo dục của tác phẩm ấy.

- Giá trị giáo dục của một tác phẩm văn học: "Nâng cao tinh thần", gợi: "Những tình cảm cao quý và can đảm" của con người.

Gợi ý:

Có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau khi bàn về cách nhận xét giá trị của văn chương. Có người chú trọng về mặt nghệ thuật, có người chú trọng về mặt nội dung. Nhà văn người Pháp La Bơ-ruy-e cũng đã mang đến một cách đánh giá về giá trị của tác phẩm văn học của mình. Ông viết " Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và cân đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay do một nghệ sĩ viết ra" 

Đúng như vậy!  Nhà văn La Bơ-ruy-e đã bày tỏ quan điểm về cách đánh giá một tác phẩm văn chương và như thế nào là một nghệ sĩ chân chính. Theo ông, tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tinh thần của con người theo hướng tích cực chính là một cuốn sách hay, chính xác là văn chương và người viết ra nó xứng đáng được gọi bằng nghệ sĩ. Câu nói của nhà văn Pháp La bơ-ruy-e mang ý khẳng định giá trị của một tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học được viết ra sẽ có nhiều người đọc thưởng thức những không phải ai cũng thấy được cái hay trong tác phẩm này vì mỗi người cũng có những sở thích khác nhau. Bỏ qua nguyên tắc đánh giá một tác phẩm có được coi là giá trị hay không, chúng ta chỉ cần thấy rằng tác phẩm đó khiến cho tinh thần của ta được nâng cao và khơi gợi cho ta những tình cảm cao quý thì nó chính là một tác phẩm có giá trị do một người nghệ sĩ tài ba sáng tác. Bởi khi ấy, nó mang giá trị về mặt tinh thần vô cùng lớn đối với ta rồi.

Văn học đến với mỗi người dựa vào tình cảm và cảm xúc. Nó mang đến cho con người những rung động sâu xa trước vẻ đẹp của quê hương, của đất nước, trước cuộc sống vô cùng phong phú, đa dạng muôn hình vạn trạng và nhất là trước độ sâu của thế giới tâm hồn. Mục đích trước tiên và quan trọng nhất của văn học chính là giúp con người đối chiếu, liên tưởng và suy nghĩ về cuộc đời và về chính bản thân mình, nâng cao niềm tin với bản thân để từ đó rút ra được nhận thức đúng đắn hơn, có khát khao hướng tới chân lí, dám đấu tranh để chống lại cái xấu, cái ác; biết tìm tòi và hướng đến những cái Đẹp, cái Thiện trong cuộc sống. Đó chính là văn học chân chính, nó mới có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa và xứng đáng là tri kỉ của con người. Tư tưởng này của ông cũng gần giống với tư tưởng của hai nhà văn, nhà hiện thực văn học lớn ở Việt Nam là tác giả Thạch Lam và tác giả Nam Cao. Thạch Lam cho rằng văn chương không phải cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; mà trái lại, văn chương là một thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể sở hữu, để tố cáo và làm thay đổi một cái thế giới giả dối và độc ác, vừa làm cho lòng người thêm phần trong sạch và phong phú hơn. Còn với Nam Cao, ông đã thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” để bộc lộ quan điểm của bản thân về tác phẩm văn chương cũng như về nhà văn chân chính. Là một nhà văn, Hộ cũng từng ấp ủ hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương của bản thân. Anh mong muốn sẽ sáng tác ra những tác phẩm thật sự có giá trị, vượt lên trên tất cả bờ cői và giới hạn. Quan điểm về văn chương của Hộ cũng vô cùng tiến bộ: Một tác phẩm văn chương đích thực cần phải chứa được một cái gì đó thực sự lớn lao, mạnh mẽ lại vừa đau đớn nhưng lại phấn khởi. Nó ca tụng lòng yêu thương, tình nhân ái, sự công bằng… Nó làm cho con người lại gần nhau hơn. Nhà văn phải là những người nghệ sĩ vừa mang trong mình cái tâm lại vừa có cái tài, trong sáng tác phải xây dựng cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn riêng biệt không thể lẫn với bất cứ người nào khác; vì: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao).

Chúng ta có thể nhận thấy rằng có những tác phẩm được coi là tác phẩm kinh điển, hay những tác phẩm mang đến giá trị về nội dung và nghệ thuật to lớn- những tác phẩm ấy không viết về những chủ đề cao siêu, mà chỉ đơn giản viết về những cái giản đơn, thân thuộc và gần gũi nhất với con người. Bởi những thứ đó, nó gắn bó với cuộc sống của từng người, khiến người đọc cảm nhận được mình xuất hiện trong chính tác phẩm ấy, thấy tiếng lòng được nói ra. Ví dụ như tác phẩm “Hai đứa trẻ” của tác giả Thạch Lam ngày nào cũng ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm. Hay tác phẩm “Vợ nhặt” của tác giả Kim Lân kể về anh cu Tràng nhặt được vợ trong một ngày đói, rồi tác phẩm “Chí Phèo”, “Đời thừa” của tác giả Nam Cao. Bên cạnh đó, cũng có vô số tác phẩm văn học thế giới kinh điển đã chứng minh điều này ví dụ như bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của Vích-to Huy-gô là một bài ca tuyệt vời thể hiện tình thương yêu của con người, về đức vị tha và sự hi sinh đến quên bản thân. Nhân vật Giăng Van-giăng chính là “nhân vật tư tưởng” tiêu biểu thể hiện sự nhân đạo của nhà văn. Người thợ làm vườn nghèo khổ ấy vì thương đàn cháu trong hoàn cảnh mồ côi nheo nhóc, đói khát đã liều mình đập vỡ cửa kính của tiệm bán bánh mì để ăn cắp một ổ. Bị kết án khổ sai, Giăng Van-giăng cũng mấy lần tìm cách để vượt ngục nhưng không thành công nên thời gian ngồi tù lại càng kéo dài ra mãi. Sau khi được tự do, vì hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo, Giăng Van-giăng lại tiếp tục phạm tội cướp đồng xu của một đứa bé và ăn cắp bộ đồ ăn làm bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự độ lượng và lòng bác ái của vị giám mục nhân từ đó đã cứu Giăng Van-giăng thoát khỏi vòng lao lý và nó tác động to lớn đến tư tưởng và tình cảm của con người tội nghiệp này. Nó đóng vai trò quyết định trong sự thay đổi cuộc sống và trong tính cách của nhân vật Giăng Van-giăng...

Như vậy, ý kiến của nhà văn người Pháp La Bơ -ruy -e hoàn toàn chính xác, góp phần trong việc khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của chức năng giáo dục trong văn chương và cũng nêu lên được cách đánh giá đúng đắn về tài năng của những người nghệ sĩ. Văn chương đem đến cho con người ta những giá trị tinh thần vô cùng cao quý, giúp con người hướng tới những nét đẹp Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống. Những tác phẩm văn học mang giá trị về nội dung và tư tưởng ; giá trị nghệ thuật cao sẽ vượt qua được những thử thách khắc nghiệt từ dư luận, của thời gian, không gian để ghi tên mình vào kiệt tác muôn đời của nhân loại. Đúng như nhà văn La Bơ-ruy-e khẳng định: …đó là một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.

Nắm chắc những kiến thức về khái niệm, yêu cầu và thao tác trong văn nghị luận sẽ giúp các em có thể đạt điểm tối đa ở câu có dạng văn này. Bởi vậy, việc ôn tập lại kiến thức và tham khảo các cách viết bài nghị luận văn học là vô cùng cần thiết đối với môn Ngữ Văn. Chính vì thế, bài viết phía trên sẽ hướng dẫn cho các em cách soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học. Để nắm được những kiến thức bổ ích và các bài tham khảo Soạn văn 12 học kỳ 2 cũng như các môn học khác, các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học cùng các thầy cô VUIHOC ngay nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-viet-bai-lam-van-so-5-nghi-luan-van-hoc-1879.html

 

 

Tovább

Soan bai vo chong a phu

Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm quan trọng trong chương trình Ngữ văn 12. Nhằm hỗ trợ các em có sự chuẩn bị tốt nhất cho bài học trước khi đến lớp, VUIHOC xin đưa ra gợi ý soạn bài Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài chi tiết và dễ hiểu nhất. Bài soạn sẽ giúp các bạn học sinh dễ dàng nắm bắt và tiếp cận kiến thức bài học. Cùng VUIHOC tìm hiểu nhé!

1. Soạn bài Vợ chồng A Phủ phần tác giả 

1.1 Cuộc đời 

- Tô Hoài (1920 - 2014), tên thật của ông là Nguyễn Sen.

- Ông sinh ra tại quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ.

- Ông sinh sống và lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

1.2 Thành tựu văn học 

- Tô Hoài viết văn từ trước Cách mạng, nổi tiếng với truyện đồng thoại Dế mèn phiêu lưu ký. Tô Hoài là một nhà văn lớn sáng tác nhiều thể loại. Tô Hoài sáng tác rất nhiều tác phẩm mang lại nhiều giá trị to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Năm 1996, Tô Hoài được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Lối viết hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ giàu có, bình dân, thông tục nhưng rất cuốn hút người đọc đặc biệt ở vốn hiểu biết sâu rộng về tập quán nhiều vùng khác nhau. Sở trường của ông là viết về loại truyện phong tục và hồi kí. Các tác phẩm tiêu biểu phải kể đến như: Dế mèn phiêu lưu ký (truyện,1941), Nhà nghèo (truyện ngắn,1944), Chiều chiều (tự truyện,1999),..

 

2. Soạn bài Vợ chồng A Phủ phần tác phẩm 

2.1 Xuất xứ

- “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953). Tập truyện được trao giải Nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955.

2.2 Hoàn cảnh sáng tác 

- Tác phẩm được viết vào năm 1952 là kết quả của những chuyến đi thực tế cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc của tác giả năm 1952. Trong chuyến đi này, ông có cơ hội, điều kiện tiếp xúc với nhiều đồng bào Tây Bắc và cuộc sống của đồng bào nơi đây đã khơi nguồn cảm hứng cho ông.

2.3 Bố cục 

Gồm ba phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “Đến bao giờ chết thì thôi” kể về hoàn cảnh sống của nhân vật Mị.

  • Phần 2. Tiếp theo đến .. "đánh nhau ở Hồng Ngài" kể về cuộc đời của A Phủ.

  • Phần 3. Phần còn lại kể về cuộc gặp gỡ và hành trình giải thoát của Mị và A Phủ.

2.4 Ý nghĩa nhan đề 

– Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành quả của những chuyến đi thực tế cùng các cán bộ lên giải phóng Tây Bắc của tác giả năm 1952, nhà văn có điều kiện được tiếp xúc trực tiếp với đời sống thường ngày của đồng bào miền núi Tây Bắc.

– Tô Hoài đặt nhan đề cho tác phẩm súc tích, ngắn gọn mà mang nhiều ý nghĩa. “Vợ chồng A Phủ” – tên nhan đề đã làm nổi bật lên hai nhân vật trung tâm được đề cập trong tác phẩm đó là: A Phủ và Mị.

–Ở đây tác giả Tô Hoài cũng muốn nhấn mạnh,làm rő mối quan hệ của hai nhân vật trung tâm của tác phẩm là quan hệ “vợ chồng” thay vì đặt cái tên khác như “A Phủ và Mị”. Hai con người xa lạ vốn chẳng quen biết nhau A Phủ và Mị lại tình cờ gặp nhau trong hoàn cảnh khốn cùng, khổ sở. Đó là cùng vì món nợ với nhà thống lí Pá Trá lúc đó Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lý, còn A Phủ vì đánh A Sử – con trai thống lý mà phải nộp tiền theo lệ làng, vì không có đủ tiền nộp nên trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí.

- Sự xuất hiện của A Phủ vào những ngày tháng khốn khổ, cùng cực của Mị tại nhà thống lý Pá Tra dường như đã xoa dịu tâm hồn của Mị vốn đã lạnh lẽo và vô cảm từ lâu, Mị cảm nhận được sự đồng cảm nơi tâm hồn nhau bởi họ là cùng là người chung cảnh ngộ như nhau. Chính vì lẽ đó, Mị giác ngộ được lẽ sống và quyết định tìm cách giải thoát cho bản thân mình cũng như A Phủ bằng hành động quyết định cắt dây cởi trói cứu A Phủ - bước đầu tự giải cứu bản thân. 

- Chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, khỏi ách thống trị của Thống lí Pá Tra để đến Phiềng Sa, nơi họ thấy được ánh sáng của cách mạng. Quá trình họ gặp gỡ, nương tựa vào nhau, kết nối với nhau và trở thành vợ chồng cũng chính là quá trình họ bước ra từ bóng tối tìm đến ánh sáng đến sự tự do. Cuộc đời của vợ chồng A Phủ hoàn toàn sang trang mới khi gặp được lý tưởng cao cả của cách mạng. Nhà văn Tô Hoài viết lên tác phẩm này nhằm phản ánh số phận đau thương, cùng cực và con đường tìm đến tự do của con người nơi đây. Qua nhan đề “Vợ chồng A Phủ”, người đọc cũng có thể cảm nhận được sức sống tiềm tàng cũng như khát vọng tự do của nhân dân vùng miền núi Tây Bắc.

2.5 Tóm tắt tác phẩm 

- Nội dung chính của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”

Mị khi đó là một cô gái xinh đẹp, mang trong mình bao khát vọng tự do, hạnh phúc lại bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Dù phản kháng đến mấy Mị cũng chỉ dần dần trở nên tê liệt,trở thành nô lệ, ngày ngày “lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói vào cột nhà. A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt vì đánh A Sử - con trai thống lí Pá Tra và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí. Không may hổ vồ mất một con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết. Nhưng đêm ấy, khi bắt gặp hai dòng nước mắt lấp lánh trên má A Phủ. Mị thương người, Mị nghĩ đến thân phận mình, Mị đã cắt dây trói của A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Mị và A Phủ gặp được A Châu, được giác ngộ, trở thành du kích, cùng nhau chiến đấu để bảo vệ bản làng. 

3. Giá trị của tác phẩm 

3.1 Giá trị hiện thực 

– Phản ánh chế độ thực dân phong kiến lạc hậu với những hủ tục, thần tục cổ hủ và cường quyền có sức mạnh đàn áp, chi phối cuộc đời của đồng bào dân tộc nơi đây.

– Số phận, cuộc đời bi thương, cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân ảnh hưởng tới đại bộ phận không nhỏ người lao động nghèo khó điển hình như nhân vật Mị,  A Phủ được tác giả xây dựng, khắc họa một cách chân thật, rő nét.

3.2 Giá trị nhân đạo 

– Lên tiếng phê phán, tố cáo xã hội thực dân phong kiến thời điểm bấy giờ đã dồn con người vào bước đường cùng, vùi dập biến họ trở thành con rối, tay sai, nô lệ để dễ bề cai trị.

– Diễn tả cảm xúc chung trong xuyên suốt tác phẩm sự cảm thông, đau xót của nhà văn trước cảnh con người chà đạp tới bước đường cùng không có chút sự tự do hay nhân quyền. Mị và A Phủ, nhân vật đại diện cho lớp người nghèo khổ dưới ách thống trị, họ phải sống cuộc đời của kẻ nô lệ, bị lệ thuộc, cuộc sống của tầng lớp dưới đáy của xã hội, thậm chí họ không được đối xử bằng con trâu, con ngựa, bị bóc lột một cách dã man, tàn bạo.

– Qua truyện ngắn, Tô Hoài với chủ đích muốn ngợi ca sức sống tiềm tàng, niềm tin vào ngày mai tươi sáng của con người ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Mị vẫn luôn muốn được đi chơi trong đêm tình mùa xuân, vẫn khát khao, mơ ước có hạnh phúc của bản thân mình, sự tự do, giải thoát khỏi ngục tù đen tối của cuộc đời mình. Dẫu bị bắt làm nô lệ, tay sai cho nhà Thống lí Pá Tra nhưng vẫn A Phủ không hề nhụt chí hay đánh mất sức sống mãnh liệt vốn có của mình. A Phủ vẫn sống một cách cuộc đời phóng khoáng, yêu đời, luôn khát vọng sống, khao khát tự do, mang trong mình những lí tưởng cao đẹp.

– Hành trình tìm đến với con đường giải thoát cuộc đời mình khỏi ngục tù tối tăm của hai nhân vật mà Tô Hoài đưa ra trong tác phẩm chính là con đường đi theo ánh sáng của cách mạng mà trong đoạn cuối của truyện ngắn, vợ chồng A Phủ đã chạy trốn tới Phiềng Sa, để bước theo ánh sáng của cách mạng, giải cứu cuộc đời tăm tối của họ.

3.3 Giá trị nghệ thuật 

– Nghệ thuật miêu tả cảnh sắc thiên nhiên , cảnh sinh hoạt hàng ngày với giọng văn mộc mạc, giản dị, gần gũi mang đậm màu sắc của vùng núi Tây Bắc 

– Ngòi bút xây dựng nhân vật tài tình của Tô Hoài đã khắc họa nhân vật một cách chân thực, sinh động, và vô cùng rő nét. Dù hai nhân vật chung hoàn cảnh, số phận nhưng tác giả vẫn làm nổi bật lên nét tính cách riêng biệt của họ.

– Lối trần thuật được sử dụng rất thành công với giọng kể suy tư có phần sâu lắng mang đầy sự cảm thông, yêu mến; nhịp kể chậm rãi, xúc động có khi hòa quyện vào dòng tâm trạng, suy tư của nhân vật lại bộc lộ nội tâm của nhân vật lại vừa tạo được sự đồng cảm.

– Ngôn ngữ giản dị, gần gũi được chọn lọc kỹ càng, sáng tạo giàu tính tạo hình lại vừa giàu chất thơ.

 

4. Hướng dẫn soạn bài Vợ chồng A Phủ 

Câu 1 (trang 14 SGK Ngữ văn 12 tập 1):

a. Cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, bị đày đọa tủi cực sống một cuộc sống khốn khổ  của nhân vật Mị:

- Dưới ách cai trị nhà Thống lí: Mị bị đày đọa, dồn vào bước đường cùng, ảnh hưởng cả về thể xác lẫn tinh thần

+ Lúc mới đầu: Đêm nào Mị cũng khóc => Sự đau khổ, nhen nhóm muốn phản kháng, đấu tranh cho bản thân nhưng lại vụt mất.

+ Lâu ngày sống trong cảnh khổ sở  Mị học cách làm quen và chấp nhận: 

Cuộc sống như con rùa lùi lũi ở xó cửa, làm việc quần quật từ sáng tới tối không bằng con trâu, con ngựa còn có lúc được nhai cỏ, còn Mị bị đánh đập, đối xử tệ bạc, man rợ bị trói đứng trong buồng.

Số phận bi đát, cuộc đời bị giam hãm của Mị là cái cửa sổ vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắng ở buồng Mị, trông ra không biết là sương hay nắng,và Mị nghĩ mình sẽ ngồi ở đó trông ra “cái cửa sổ đến hết cuộc đời” cho đến khi nào chết thì thôi.

=> Mị giam cầm cả về thể xác lẫn tâm hồn, cảm xúc vô cảm, dần bị chai sạn trước những đau khổ, mất hết ý thức về cuộc sống. Một cô gái xinh đẹp, ngoan hiền lại bị coi là nô lệ không công, là công cụ biết nói trong cái địa ngục trần gian ở Hồng Ngài - một số phận bi thảm của một con người bị áp bức dưới chế độ phong kiến khắc nghiệt và tàn bạo trên vùng cao

b. Diễn biến tâm trạng và hành động:

- Thiên nhiên Hồng Ngài khi vào xuân, cảnh chuẩn bị đón tết, tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân đánh thức tâm hồn Mị một sức sống tiềm ẩn.  Mị nghe tiếng sáo Mị bỗng thấy tâm hồn như phơi phới, Mị uống ực từng bát như uống cho hết nỗi nhục số phận, trong cơn say men rượu giúp Mị thoát khỏi cuộc sống lầm lũi để vươn tới những ý nghĩ về cuộc đời đẹp đẽ.

+ Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi với tay lấy chiếc váy hoa chải chuốt lại đầu tóc để đi chơi.

+ A Sử không cho Mị đi, buộc Mị vào cột giữa nhà cột cả tóc lên khiến Mị không thể cúi đầu được. 

- Trong đêm cắt dây trói để cứu A Phủ:

+ Mùa đông đến Mị thường dậy nửa đêm để hơ tay ấm cho đỡ lạnh

+ Khi ấy Mị bắt gặp A Phủ đang bị trói, ban đầu Mị thản nhiên, dửng dưng như không thấy gì vì đó là chuyện rất đỗi bình thường trong nhà thống lí. 

+ Nhưng đêm ấy, khi bắt gặp hai dòng nước mắt lấp lánh trên má A Phủ. Mị thương người, thương cho cả chính bản thân mình. Mị dứt khoát trong hành động cắt dây trói cứu A Phủ => Hành động cắt dây trói dây giải thoát cho A Phủ. Đó không phải là một hành động tự phát mà nó là kết quả của một quá trình bị chà đạp, dồn ép đến chân bước đường cùng, nó thể hiện sức sống tiềm ẩn trong con người của Mị.

+ Ngay sau đó, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao sự bứt rứt, giằng xé trong lòng Mị. Lúc đó khát vọng trỗi dậy thật mạnh mẽ, ý thức được kiếp sống tủi nhục , khắc khổ, Mị đã can đảm vượt qua và chạy trốn cùng A Phủ tới Phiềng Sa tìm thấy ánh sáng của cách mạng.

Câu 2 (trang 15 SGK Ngữ văn 12 tập 1):

a. Tính cách nhân vật A phủ

- Hoàn cảnh: A Phủ là mồ côi từ nhỏ vả lại còn rất nghèo nên không lấy được vợ. A Phủ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, được lòng rất nhiều con gái trong làng, có được A Phủ "cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà"

- Khi đánh nhau với A Sử: Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay to vào mặt A Sử, con quay văng giữa mặt, A Phủ đã tới, nắm cổ, kép dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp => sự khỏe khoắn, mạnh mẽ, sự căm thù của A Phủ đối với A Sử.

- Giữa những trận mưa đòn trong cuộc xử kiện: “im như cái tượng đá” mặc dù bị đánh đập dã man nhưng A Phủ không hề một tiếng kêu rên và  cuối cùng lại phải chịu đi ở gạt nợ cho thống lí => gan lì, nhẫn nhục, cam chịu.

- Khi làm công gạt nợ cho thống lí, A Phủ làm cái gì cũng phăng phăng, tháo vát mọi việc. Những vẫn là một A Phủ cứng cỏi, gan bướng ngay cả khi đánh mất bò, đối diễn với Pá Tra vẫn tự tin ở sức mình “Tôi về lấy súng thể nào cũng bắn được con hổ này to lắm”, “con hổ ấy còn nhiều tiền hơn con bò” => Chăm chỉ, chất phác, vô tư

b. Điểm nổi bật khi khắc họa hình tượng nhân vật Mị Và A Phủ:

- Nhân vật A Phủ được khắc họa chủ yếu qua ngoại hình, chuỗi hành động để làm nổi bật lên nét táo bạo, gan góc, tinh thần phản kháng của một chàng trai miền núi.

- Nhân vật Mị xây dựng thông qua tâm lí nhân vật. Cách tạo ra nghịch lú trong cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị. Kết hợp cùng cách dùng hình ảnh ẩn dụ độc đáo (căn buồng của Mị) gây cảm giác bức bối về nơi giam giữ, một hình tượng hóa giàu sức khái quát về ngục tù cuộc sống của Mị. 

Câu 3 (trang 15 SGK Ngữ văn 12 tập 1):

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động có cá tính đậm nét. 

- Biệt tài miêu tả thiên nhiên miền núi và phong tục tập quán của người miền núi với chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ (trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ... Đám trẻ con chơi quay cười ầm trước sân nhà)

- Nghệ thuật dẫn truyện tự nhiên, chân thực không kém phần sinh động, hấp dẫn với ngôn ngữ mang đậm màu sắc của người dân miền núi. Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, cách dẫn dắt khéo léo mà gây được ấn tượng.

 

5. Hướng dẫn luyện tập 

Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ:

- Cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ của người nông dân miền núi ấy, nhà văn đã miêu tả đầy khổ cực cuộc sống của Mị và A Phủ. Qua đây, ngợi ca vẻ đẹp và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân, đặc biệt là ca ngợi sức mạnh tiềm tàng mãnh liệt.

- Lên án, tố cáo tội ác của bọn phong kiến miền núi tàn bạo đã đẩy người dân vào bao nỗi đau khổ của người dân nghèo khổ.

- Đặt niềm tin mãnh liệt về tương lai, về sức sống kì diệu trong tâm hồn con người, con đường tươi sáng là tự giải phóng mình, tìm đến cách mạng và cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù để thay đổi cuộc đời của mình.

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết và đầy đủ nhất cách soạn bài Vợ chồng A Phủ của tác giả Tô Hoài thuộc chương trình Ngữ văn THPT. Hi vọng rằng có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức mà tác phẩm tuyệt vời này đem lại. Để học nhiều hơn các bài tham khảo Soạn văn 12 cũng như các kiến thức của các môn học thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-vo-chong-a-phu-ngu-van-12-1876.html

 

 

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek