Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

SOẠN BÀI SỰ SỐNG VÀ CÁI CHẾT

Văn bản dưới đây bàn luận về sự sống và cái chết của những loài sinh vật trên Trái Đất. Mọi vật trên Trái Đất đều sống ở cái ranh giới giữa sự sống và cái chết và luôn đấu tranh sinh tồn để tự bảo vệ bản thân. Đó là nội dung của phần Soạn bài Sự sống và cái chết mà các em cần nắm được thông qua bài viết dưới đây của VUIHOC.

1. Soạn bài Sự sống và cái chết trước khi đọc 

Khi quan sát những biểu hiện cụ thể của sự sống ở trên Trái Đất, điều gì đã khiến cho bạn băn khoăn, suy nghĩ hoặc tò mò?

Phương pháp giải:

Dựa vào những thứ mà bạn đã quan sát được về thiên nhiên, con người và các sinh vật sinh sống trên Trái Đất để có thể trả lời câu hỏi.

Lời giải chi tiết:

Học sinh tự nêu những vấn đề mà mình muốn thắc mắc khi quan sát thấy những biểu hiện cụ thể của sự sống ở trên Trái Đất.

Gợi ý: có thể là những vấn đề liên quan tới sự xuất hiện của sự sống hay sự hình thành những sinh vật trong tự nhiên,…

2. Soạn bài Sự sống và cái chết trong khi đọc

1.1 Câu 1 Dự đoán nội dung cụ thể sẽ được triển khai trong bài viết qua nhan đề và đoạn 1.

Phương pháp giải:

- Đọc kỹ đoạn (1) của văn bản Sự sống và cái chết.

- Dựa vào nhan đề cùng với đoạn thứ nhất để có thể nêu ra nội dung bài viết.

Lời giải chi tiết:

Nội dung cụ thể đã được triển khai ở trong bài viết là về sự sống trên Trái Đất, sự sống của những loài sinh vật trên Trái Đất.

>> Xem thêm: Soạn văn 10 Kết nối tri thức

1.2 Câu 2 Việc tác giả tưởng tượng ra một chuyến “du hành” ngược thời gian có ý nghĩa gì?

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại đoạn (2) của văn bản Sự sống và cái chết.

- Tập trung vào những chi tiết liên quan đến chuyến “du hành” ngược thời gian để nêu ra ý nghĩa của nó.

Lời giải chi tiết:

Ý nghĩa của chuyến “du hành” ngược thời gian chính là giúp cho người đọc hiểu rő hơn về lịch sử hình thành của sự sống, sự đa dạng của những loài sinh vật sinh sống trên Trái Đất từ hàng trăm triệu năm về trước.

1.3 Câu 3 Chú ý những thuật ngữ chuyên ngành sinh học được sử dụng trong các đoạn 3, 4 và tác dụng của nó. 

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại đoạn (3) và (4) trong văn bản Sự sống và cái chết.

- Tìm hiểu những thuật ngữ chuyên ngành sinh học đã được sử dụng trong đoạn (3) và (4) để nêu ra tác dụng của chúng.

Lời giải chi tiết:

- Những thuật ngữ chuyên ngành sinh học đã được sử dụng trong đoạn (3) và (4) là “bọ ba thùy”, “tuyệt chủng”, “cuối kỉ Péc-mi”, “ổ sinh thái”, “các loài tiến hóa”,…

- Tác dụng của những thuật ngữ chuyên ngành sinh học ấy nhằm giúp cho bài viết có thêm dẫn chứng thuyết phục và cụ thể hơn, người đọc có thể nhận thấy được sự rő hơn về mặt nội dung vấn đề.

1.4 Câu 4  Sự khác nhau giữa các vật vô sinh và các sinh vật là gì?

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại đoạn (4) của văn bản Sự sống và cái chết.

- Chú ý vào chi tiết được viết về vật vô sinh để có thể lý giải sự khác nhau giữa vật vô sinh với sinh vật.

Lời giải chi tiết:

Sự khác nhau giữa những vật vô sinh và những sinh vật là:

- Các sinh vật luôn có sự sống, chúng phải đấu tranh để có thể sinh tồn, để không bị đào thải hoặc bị chết và dẫn đến việc chúng bị tuyệt chủng.

- Các vật vô sinh là vật mà không có sự sống, là các hạt và các nguyên tử; chúng không cần phải có sự đấu tranh để sinh tồn.

3. Soạn bài Sự sống và cái chết sau khi đọc 

3.1 Câu 1 trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Văn bản Sự sống và cái chết đã viết về đề tài gì? Từ việc liên hệ tới những văn bản khác cùng đề cập với đề tài này mà bạn đã từng được đọc, hãy cho biết về góc độ tiếp cận vấn đề riêng đó của tác giả?

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại văn bản Sự sống và cái chết.

- Dựa vào nội dung của văn bản để chỉ ra được đề tài của văn bản.

- Từ việc liên hệ đến những văn bản khác đã được học mà có chung đề tài để chỉ ra được góc độ tiếp cận vấn đề riêng của tác giả.

Lời giải chi tiết:

- Đề tài của văn bản viết về chủ đề sự sống và cái chết của những loài sinh vật trên Trái Đất, lịch sử hình thành của chúng và sự đa dạng của những loài sinh vật.

- Góc độ tiếp cận vấn đề riêng của tác giả chính là việc tiếp cận từ nguồn gốc và sự hình thành của tự nhiên, từ việc khám phá ra vẻ đẹp đa dạng của sự sống, của những loài sinh vật trên Trái Đất.

3.2 Câu 2 trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Tóm tắt những thông tin chính ở trong văn bản và chỉ ra cách mà tác giả sắp xếp và tổ chức những thông tin đó.

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại văn bản Sự sống và cái chết.

- Dựa vào nội dung những đoạn văn để tóm tắt lại thông tin chính ở trong văn bản và cách sắp xếp và tổ chức thông tin ấy.

Lời giải chi tiết:

Những thông tin chính ở trong văn bản là:

- Sự xuất hiện của sự sống ở trên Trái Đất xét theo chiều dọc và chiều ngang.

- Sự đa dạng sự sống của những loài sinh vật ở trên Trái Đất từ hàng trăm triệu năm về trước.

- Sự tiến hóa và tuyệt chủng của những loài động và thực vật trên Trái Đất.

- Sự khác nhau giữa những loài sinh vật và những vật vô sinh.

3.3 Câu 3 trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Dựa vào nội dung của văn bản, vẽ sơ đồ mô tả lại quá trình phát triển của sự sống ở trên Trái Đất.

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại văn bản Sự sống và cái chết.

- Dựa vào nội dung trong từng đoạn, sự liên kết thông tin giữa những đoạn ấy để vẽ sơ đồ mô tả về quá trình phát triển của những sự sống trên Trái Đất.

Lời giải chi tiết:

Sơ đồ mô tả về quá trình phát triển những sự sống trên Trái Đất:

 

3.4 Câu 4 trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Văn bản mang lại cho bạn những hiểu biết gì về mối quan hệ giữa “đấu tranh sinh tồn” cùng với “tiến hóa”, giữa “sự sống” với “cái chết”.

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại văn bản Sự sống và cái chết.

- Dựa vào những thông tin có trong văn bản để chỉ ra về mối quan hệ giữa “đấu tranh sinh tồn” cùng với “tiến hóa”, giữa “sự sống” với “cái chết”.

Lời giải chi tiết:

- Mối quan hệ giữa “đấu tranh sinh tồn” với “tiến hóa” được biết là mối quan hệ qua lại hay bổ sung cho nhau. Những loài sinh vật để có thể sinh sống được thì cần phải có sự đấu tranh sinh tồn và để sinh tồn thì cũng cần phải có sự tiến hóa, nâng cấp bản thân để có thể tăng cường sức mạnh, để có thể đánh bại được kẻ thù, để không bị chết hay bị tuyệt chủng.

- Mối quan hệ giữa “sự sống” với “cái chết” là mối liên hệ vô cùng mật thiết, chúng luôn đi liền với nhau. Sinh vật để không bị chết thì cần cố gắng giữ gìn sự sống cho mình, sống và chết chỉ cách nhau bằng một tầng giấy vô cùng mỏng manh và không chắc chắn.

→ Mối quan hệ giữa “đấu tranh sinh tồn” với “tiến hóa”, giữa “sự sống” với “cái chết” là quan hệ vô cùng gắn bó, không thể tách rời khỏi nhau, chúng luôn luôn đi cùng với nhau.

3.5 Câu 5 trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Ngoài việc biết thêm những thông tin khoa học về Trái Đất, bạn còn nhận thêm được những thông điệp như thế nào từ văn bản Sự sống và cái chết? Hãy trình bày suy nghĩ của bạn về những thông điệp ấy.

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại văn bản Sự sống và cái chết.

- Dựa vào nội dung và thông tin trong văn bản đã tìm hiểu để nêu ra những thông điệp được rút ra từ văn bản và suy nghĩ về thông điệp ấy.

Lời giải chi tiết:

- Những thông điệp nhận được thông qua văn bản là thông điệp về việc phải bảo vệ sự sống ở trên Trái Đất, bảo vệ những loài động và thực vật quý hiếm tránh khỏi sự tuyệt chủng.

- Những thông điệp được rút ra từ văn bản đều có liên quan tới những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống ngày nay và trong môi trường tự nhiên; các loài động và thực vật quý hiếm đang trên đà tuyệt chủng do chính sự tác động của con người.

3.6 Câu 6 trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Những đặc trưng của loại văn bản thông tin đã được thể hiện ra sao trong văn bản này? Những yếu tố miêu tả, tự sự và biểu cảm, nghị luận đã được phối hợp sử dụng ra sao và tạo được hiệu quả như thế nào?

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại văn bản Sự sống và cái chết.

- Đọc lại kiến thức liên quan đến văn bản thông tin và những yếu tố miêu tả, tự sự và biểu cảm, nghị luận có trong văn bản thông tin của phần Tri thức ngữ văn trang 73.

- Dựa vào những kiến thức ấy để có thể trả lời câu hỏi.

Lời giải chi tiết:

- Những đặc trưng của văn bản thông tin đã được thể hiện một cách đầy đủ và rő ràng ở trong văn bản đó. Văn bản phía trên đã cung cấp đầy đủ những thông tin liên quan tới vấn đề, đã đảm bảo được tính chính xác, có sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ là những số liệu thống kê, …

- Các yếu tố miêu tả, tự sự và biểu cảm, nghị luận đã được phối hợp và sử dụng một cách hiệu quả, rất thành công trong văn bản. Những yếu tố này giúp cho văn bản có tính chính xác và khách quan hơn, dễ hiểu hơn và cũng làm tăng hiệu quả tác động đối với người đọc.

3.7 Câu 7 trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Có thể đổi nhan đề của văn bản thành Sự sống và cái chết của những loài sinh vật trên Trái Đất được hay không? Vì sao?

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại văn bản Sự sống và cái chết.

- Dựa vào những thông tin và thông điệp mà tác giả muốn truyền tải để có thể giải thích được lý do tác giả đã sử dụng nhan đề là Sự sống và cái chết.

Lời giải chi tiết:

- Có thể đổi nhan đề của văn bản Sự sống và cái chết thành Sự sống và cái chết của những loài sinh vật trên Trái Đất.

- Lý do khiến cho tác giả chọn một nhan đề cô đọng và mang một hàm nghĩa lớn hơn là Sự sống và cái chết là do nhan đề này rất ngắn gọn và nó cũng bao hàm được ý nghĩa, vấn đề và thông điệp mà tác giả đang muốn truyền tải.

3.8 Câu 8 trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Vấn đề mà tác giả đặt ra ở trong văn bản này đã tác động thế nào tới nhận thức của bạn về cuộc sống?

Phương pháp giải:

- Đọc kỹ văn bản Sự sống và cái chết.

- Dựa vào nội dung và thông điệp ở trong văn bản để chỉ ra được sự tác động của vấn đề tác giả đặt ra tới nhận thức của bản thân về cuộc sống.

Lời giải chi tiết:

Tác động của vấn đề mà tác giả đặt ra tới nhận thức của bản thân tôi về cuộc sống chính là nhận thức được bản thân cần phải thực sự trân trọng sự sống, biết bảo vệ sự sống cho mọi vật xung quanh ta và mọi vật ở trên Trái Đất.

4. Kết nối đọc viết trang 77 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Thu thập những thông tin liên quan đến một loài sinh vật mà bạn đang muốn tìm hiểu. Trình bày thông tin ấy bằng một đoạn văn (độ dài khoảng 150 chữ)

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ lại văn bản Sự sống và cái chết.

- Thu thập thông tin liên quan đến một loài sinh vật mà bạn muốn tìm hiểu ở trên mạng xã hội hoặc ở trên sách báo để viết được đoạn văn trình bày về những thông tin đó.

Lời giải chi tiết:

Trên Trái Đất có rất nhiều những loài động vật, chúng vô cùng đa dạng và phong phú cả về số lượng và các loài, có những loài bò sát, loài côn trùng sinh sống trên đất liền hay những loài động vật ở dưới nước, loài lưỡng cư,… Trong đó, rắn là một loài bò sát ăn thịt, chúng sống trong rừng rậm; phần lớn loài rắn không có nọc độc, những loài mà có nọc độc thì chủ yếu sử dụng nó vào việc giết chết hoặc khuất phục con mồi thay cho việc phòng vệ, có một số loại rắn độc có thể làm chết người. Rắn là động vật sở hữu thân hình tròn dài (hay hình trụ) và có xương sống và có màng ối, ngoại nhiệt với những lớp vảy xếp chồng lên nhau để che phủ cơ thể. Nguồn gốc của loài rắn vẫn là một vấn đề vẫn chưa được giải quyết. Có hai giả thuyết chính về quá trình cạnh tranh lẫn nhau của nguồn gốc của rắn: Giả thuyết về thằn lằn đào bới và giả thuyết về thương long thủy sinh. Những loài rắn còn sinh tồn đã được tìm thấy gần như ở mọi châu lục (trừ châu Nam Cực), trong lòng những đại dương như là Ấn Độ Dương hay Thái Bình Dương, và trên phần lớn những khối lục địa nhỏ hơn — những ngoại lệ bao gồm một số hòn đảo lớn như Ireland hay New Zealand, và nhiều đảo nhỏ khác trong Đại Tây Dương hay Trung Thái Bình Dương.

Kích thước của chúng có sự biến động từ nhỏ, như rắn chỉ (Leptotyphlops carlae), chúng chỉ dài tầm 10 cm (4 inch), cho tới lớn như loài trăn gấm (Python reticulatus) dài đến 8,7 m (29 ft). Sự lột xác (hay còn gọi là lột da) ở loài rắn phục vụ cho một loạt những chức năng và nó diễn ra xuyên suốt cuộc đời. Trước hết lớp da phía ngoài cũ kỹ và đã bị mòn sẽ được thay thế; thứ hai, nó giúp loại bỏ những động vật ký sinh như ve hoặc bét. Những con rắn già sẽ chỉ lột da từ 1 tới 2 lần một năm, nhưng những con rắn non vẫn còn đang lớn thì có thể sẽ lột da đến 4 lần mỗi năm. Trên Trái Đất, rắn là một loài động vật không hiếm thấy mà còn rất đa dạng, nó xuất hiện chủ yếu tại rừng rậm nên cũng ít người có thể tận mắt nhìn thấy. Hình dạng cũng như những tập tính và đặc trưng của chúng đều rất thú vị và đáng để mọi người tìm hiểu.

 

Trên đây là toàn bộ phần Soạn bài Sự sống và cái chết trong sách kết nối tri thức. Hy vọng sau khi đọc bài viết này, các em sẽ hiểu được nội dung và cách tiếp cận vấn đề của tác giả về sự sống và cái chết. Ngoài bài soạn này ra, nếu các em muốn học thêm về những bài văn bản khác thuộc chương trình ngữ văn nói riêng hay những kiến thức của môn học khác nữa, các em nhanh tay vào website vuihoc.vn để có thể đăng ký khoá học và trải nghiệm bài giảng cùng các thầy cô VUIHOC ngay nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-su-song-va-cai-chet-sach-van-10-ket-noi-tri-thuc-2722.html

 

 

Tovább

Soan bai viet van nghi luan 10

Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học là một kỹ năng cần thiết, hỗ trợ cho học sinh kiến thức thi các kỳ thi môn Ngữ văn. Trong bài viết này, VUIHOC sẽ hướng dẫn cách Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học cùng trả lời những kiến thức có trong sách giáo khoa Kết nối tri thức 10 tập 2.

1. Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học : Bài viết tham khảo 

1.1 Câu 1 trang 63 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Chủ đề của Chữ người tử tù đã được tác giả bài viết khái quát qua những câu nào?

Lời giải chi tiết:

Chủ đề của tác phẩm Chữ người tử tù đã được tác giả khái quát thông qua những câu:

- Chữ người tử tù xây dựng nên một thế giới tăm tối, nơi tù ngục trỗi dậy và bị kẻ tiểu nhân, những bản ngã độc ác làm chủ. Trong bức tranh u ám ấy, chỉ có ba đốm sáng lẻ loi hiện lên: Huấn Cao, viên quản ngục, và viên thơ lại. Họ là những cá nhân có tài năng, hiểu biết và biết trọng tài, mang theo nghĩa khí và ý thức về trọng nghĩa khí, hiện diện một cách đơn độc giữa bức tranh đầy u ám, đen tối của tù ngục.

- Ba đốm sáng cô đơn ấy cuối cùng cũng đã tụ lại, tạo thành một ngọn lửa ngùn ngụt rực sáng giữa nơi ngục tù – một cảnh tượng chưa từng có từ xưa nay.

- Cái đẹp, cái tài, sự trong sạch của tâm hồn đã tập hợp họ lại ở giữa cái nơi mà xưa nay chỉ có gian ác, thô bỉ và sự hôi hám.

 

>> Xem thêm: Soạn văn 10 kết nối tri thức

1.2 Câu 2 trang 63 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

 Để tô đậm nên ý tưởng của bài viết, tác giả đã lựa chọn cách dẫn dắt như thế nào?

Lời giải chi tiết:

Để tô đậm thêm ý tưởng của bài viết, tác giả đã lựa chọn cách dẫn dắt gián tiếp vô cùng khéo léo, tinh tế.

- Tác giả đã tổng quan về thế giới sống của nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. Thông qua cái nhìn này, ta cũng nhận thức được vai trò quan trọng của nhân vật trong việc thể hiện chủ đề chung của tác phẩm. Sau bước giới thiệu về thế giới sống của nhân vật, tác giả tiếp tục đi sâu vào phân tích chủ đề của câu chuyện.

- Người viết cũng đã khẳng định sự nhìn nhận và sự chi phối của chủ đề đối với nhân vật, và rút ra được kết luận là khẳng định lại thêm ý nghĩa của chủ đề.

1.3 Câu 3 trang 63 SGK Văn 10/2 Kết nối tri thức

Ý nghĩa của chủ đề và nhân vật đã được khẳng định như thế nào qua bài viết?

Lời giải chi tiết:

Ý nghĩa của chủ đề và nhận vật đã được tác giả khẳng định là vô cùng quan trọng và chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau nhằm tạo nên sự hấp dẫn của mỗi tác phẩm, điều này được được thể hiện thông qua câu văn:

“Có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người đê tiện hơn. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sáng trong hơn, Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương”.

2. Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học: Thực hành viết

2.1 Đề 1: Nghị luận về tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn lớn trưởng thành trong thời kỳ toàn dân kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông nổi tiếng với những sáng tác tập trung vào cuộc sống và con người miền Nam Bộ trong cả hai cuộc chiến tranh và thời hòa bình. Trong số những tác phẩm xuất sắc của ông, "Chiếc lược ngà" được sáng tác vào năm 1966 là một trong những tác phẩm nổi bật. Tác phẩm này không chỉ là một bức tranh sinh động về cuộc sống trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt, mà còn là một tác phẩm đậm chất nhân văn, với những tình cảm cha con sâu sắc, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả.

Trong tác phẩm, tình huống éo le được xây dựng khi ông Sáu, sau tám năm xa nhà tham gia kháng chiến, được nghỉ ba ngày phép để trở về thăm nhà và con gái yêu quý, bé Thu. Trước sự xúc động và tình cảm yêu mến của ông, bé Thu, sau tám năm xa cách, không nhận ra ông là cha. Ngày ông phải rời nhà để trở lại đơn vị là cũng chính là ngày bé Thu nhận ra ông là cha của mình. Tại đơn vị, ông Sáu dồn hết tình yêu, nỗi nhớ, và sự ân hận vào việc làm chiếc lược ngà để tặng cho con. Tuy nhiên, trước khi kịp trao nó, ông đã hy sinh trong một trận càn lớn do quân Mỹ tấn công. Từ tình huống truyện, tác phẩm tôn vinh và ngợi ca tình cảm cha con sâu sắc, đồng thời lên án tội ác tàn độc của chiến tranh.

Truyện xoay quanh vào hai nhân vật chính là bé Thu và ông Sáu, thông qua một tình huống truyện éo le, mỗi nhân vật trong truyền đều bộc lộ tính cách, phẩm chất của mình. Trước hết về nhân vật bé Thu, em là con gái của ông Sáu nhưng ngay từ nhỏ, bé Thu đã phải xa ba do người ba vào chiến trường. Sau tám năm xa cách, Thu được gặp lại người cha, những tưởng đó sẽ là cuộc đoàn viên với đầy niềm vui sướng, hạnh phúc, nhưng trái ngược với điều ấy, mặc cho ông Sáu mừng rỡ lao về phía em thì Thu vẫn dửng dưng, thậm chí còn hốt hoảng gọi “Má! Má!”. Những ngày sau đó, dù ông Sáu đã hết lòng chăm sóc nhưng bé Thu vẫn có sự lạnh nhạt, thậm chí xa lánh, ngang ngạnh và cự tuyệt ông Sáu. Dù cho ông đã làm hết cách nhưng bé Thu vẫn nhất quyết không gọi ông là ba. Những lúc gặp khó khăn, nguy cấp Thu cũng chỉ gọi trống không, khi không nhận được sự trợ giúp đỡ từ ông Sá thì nó cũng loay hoay tự làm một mình.

Trong bữa cơm, ông Sáu đưa cho Thu cái trứng cá, nhưng cô bé lại gạt nó ra, khiến ông Sáu tỏ ra tức giận và đánh bé. Không chịu chấp nhận việc bị trừng phạt, Thu quyết định rời đi về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả chân thực và chính xác thái độ, hành động bất thường của bé Thu trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt. Trước những éo le và vết thương mà chiến tranh mang lại, Thu không hiểu và không chấp nhận ông Sáu là cha mình chỉ vì một vết thẹo trên khuôn mặt. Hành động cứng đầu của bé Thu không chỉ thể hiện tính bướng bỉnh mà còn là dấu hiệu của tình cảm yêu thương sâu sắc và thắm thiết mà Thu dành cho người cha của mình.

Bé Thu rất cứng đầu và chối từ sự ân cần của người cha bao nhiêu thì giây phút nhận ra cha cảm xúc của cô bé lại mãnh liệt, xúc động bấy nhiêu. Sau khi được nghe bà ngoại giải thích, bé Thu đã trở về nhà trong sáng ngày ông Sáu đã lên đường về đơn vị. Con bé đã có sự thay đổi hoàn toàn ở thái độ trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và tất cả mọi người, tiếng gọi ba thất thanh của Thu là tiếng gọi bị kìm nén suốt tám năm, tám năm chờ đợi tình yêu thương, đợi chờ ngày ba trở về. Không chỉ gọi, con bé còn lao nhanh tới, nhảy lên người ba và ôm hôn khắp cùng, hôn mặt, hôn má, và hôn cả lên trên vết thẹo dài trên mặt ba, vết thẹo xấu xí ấy đã khiến cho con bé bướng bỉnh không nhận ba. Thu đã ôm chặt anh, quàng cả chân vào người của anh Sáu, bởi nó sợ rằng nếu buông thì anh Sáu sẽ đi mất, cái ôm cái hôn ấy giống như đang muốn bày tỏ tất cả tình cảm Thu dành cho người cha. Trong khoảnh khắc đẹp đó, ai cũng như lặng cả người đi vì xúc động. Với lối miêu tả đầy chân thực, giàu cảm xúc tác giả Nguyễn Quang Sáng đã cho thấy được tình yêu thương đầy sâu nặng Thu dành cho ba, dù có những lúc đầy gan góc, bướng bỉnh nhưng em lại là người rất giàu tình cảm và cũng dễ xúc động.

Về phía ông Sáu, trong ba ngày nghỉ phép, ông Sáu đã dành trọn tình yêu thương cho đứa con gái bé bỏng của mình. Ngay khi thuyền chưa cập bến, ông nhanh chóng nhảy lên bờ và chạy về phía con, đôi bàn tay mở rộng đón đợi. Tuy nhiên, mong đợi của ông bị phủi bỏ khi bé Thu từ chối và lảng tránh. Điều này làm tổn thương ông khiến ông đau đớn và đôi tay ông buông lỏng ra như vỡ vụn. Khuôn mặt đầy đau thương của ông thật đáng thương, không biết làm thế nào để vượt qua khoảng cách thời gian và không gian giữa cha và con. Trong suốt ba ngày, ông không rời xa con, chỉ quanh quẩn bên cạnh, trao đầy tình yêu thương và ân cần, hy vọng rằng bé Thu sẽ thay đổi. Trước tính cứng đầu của con, ông chỉ lắc đầu nhẹ mà không trách móc. Đến khi ông gắp thức ăn cho con và bị nó từ chối, ông chợt nhận ra mức độ đau đớn đã tích tụ từ khi ông đánh bé Thu, điều này khiến ông hối hận rất nhiều. Khoảnh khắc hạnh phúc và đau lòng nhất của ông là khi nghe tiếng gọi ba từ con, nhưng cũng là lúc phải chia tay con để trở về đơn vị quân đội.

Một người lính có sự từng trải, gan góc ở trên chiến trường nhưng lại khóc bởi tiếng gọi đầy thân thương của con gái. Những giọt nước mắt không thể kiềm chế được, cứ thế trực trào ra. Trong những ngày tiếp theo ở chiến trường ông đã rất ân hận vì đã đánh con, không quên lời hứa, ông Sáu đã dồn tâm huyết của mình vào làm chiếc lược ngà. Ông chăm chút, tỉ mẩn mài từng chiếc răng lược sau cho thật nhẵn bóng. Thậm chí, cái chết cũng không thể cướp đi được tình yêu thương con vô bờ bến của ông Sáu. Vết thương nặng ở trong một trận càn của quân Mỹ đã khiến ông kiệt sức, không trăng trối được điều gì nhưng ông vẫn cố gắng dồn hết tàn lực móc cây lược rồi trao cho đồng đội và gửi gắm đồng đội mình thông qua ánh mắt đầy yêu thương. Cây lược ấy đã được người đồng đội của ông trao lại cho bé Thu. Tình cha con này đã không chết, nâng đỡ cho cô bé trưởng thành, vượt lên mọi đau thương và mất mát. Ông Sáu chính là biểu tượng cho tình yêu thương, sự ân cần và che chở của người cha dành cho người con mình. Qua đó ta cũng thấy được sự bất tử của thứ tình cảm cha con ở trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt.

Tác phẩm đã khéo léo xây dựng tình huống truyện độc đáo và bất ngờ, từ đó tinh tế thể hiện chủ đề của tác phẩm và phân tích tâm lí nhân vật một cách sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi của Nguyễn Quang Sáng. Lối kể chuyện chân thực, tự nhiên, và giàu cảm xúc cùng với hình ảnh giản dị, nhưng giàu ý nghĩa, biểu tượng của truyện ngắn, đã kết tinh trong hình tượng chiếc lược ngà.

Chiếc lược ngà, được mô tả một cách tinh tế, trở thành biểu tượng của tình cha con sâu nặng giữa bé Thu và ông Sáu. Từ đó, tác giả không chỉ thành công trong việc tái hiện bức tranh về tình cảm gia đình mà còn làm nổi bật sự tàn bạo của chiến tranh. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện về những bi kịch và tình cảm đẹp đẽ trong thời chiến, mà còn là một ca ngợi cho tình cảm phụ tử thiêng liêng giữa ông Sáu và bé Thu trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt.

Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là tấm gương sáng về tài năng và tâm huyết của nhà văn, thể hiện sự nhạy bén trong việc nắm bắt tâm trạng con người và khám phá những chiều sâu của tâm hồn.

2.2 Đề 2: Nghị luận về bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử

Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn đã từng đánh giá: “Thơ Hàn Mặc Tử là giọng thơ vang lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Đúng như lời nhận định này, khi đọc những bài thơ của Hàn Mặc Tử, chúng ta luôn cảm nhận được tấm lòng khao khát yêu đời và sự khao khát sống. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ này được rút từ tập “Đau thương” (1938), được coi là “tiếng thơ thuần túy nhất của Hàn Mặc Tử”, vừa trong trẻo, vừa ẩn chứa những điều đau thương."Mùa xuân chín" không chỉ là một tác phẩm thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử mà còn là biểu tượng của sự trong trắng và nỗi đau thương tinh tế. Bằng cách này, nhà thơ đã truyền đạt tâm huyết và niềm tin tích cực trong bối cảnh đau khổ, làm cho thơ của ông trở nên đặc sắc và lôi cuốn độc giả.

“Mùa xuân chín” đã gây ấn tượng với những độc giả bởi chính từ nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, chúng ta luôn thấy được một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, có chút đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng như “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến ta một cảm giác hoàn toàn mói mẻ, một không gian tràn đầy của sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ một trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn có thể thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân với đặc điểm tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân cũng đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn sức  sống nhất. 

Mạch thơ là luồng tâm tư trong thơ của Hàn Mặc Tử như một dòng suối tưng bừng, không ngừng chuyển đổi qua những kênh bất chợt. Trong thời gian mà tác giả đắm chìm trong khoảnh khắc hiện tại với vẻ đẹp rực rỡ của mùa xuân, bất ngờ, ông nhớ về quá khứ xa xôi, hình ảnh những làng quê thân thương nồng nàn. Chuyển động của cảnh sắc từ bên ngoài - ngoại cảnh (như mái nhà tranh, giàn thiên lý, sóng cỏ xanh tươi) bỗng chốc trở thành một tâm cảnh (người con gái đánh thóc dọc bờ sông trắng). Sự biến đổi này không chỉ tạo ra sự động lực cho bức tranh xuân mà còn làm tăng sự chất phác và sâu sắc của nó. Qua cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã chia sẻ dòng tâm tư của mình với nhiều bước nhảy: từ niềm say mê, sôi động đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến và rồi buồn thương đến tận cùng. Mạch thơ không tuân theo một hướng cố định mà luôn linh hoạt và phong phú, là đặc trưng của phong cách thơ độc đáo của Hàn Mặc Tử.

Mở đầu của bài thơ hiện lên là bức tranh về thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng và ngập tràn sắc xuân: 

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

  Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

  Sột soạt gió trêu tà áo biếc

  Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.

Thiên nhiên mùa xuân đã hiện ra ngập tràn ánh vàng của nắng hoà cùng trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ của tác giả “khói mơ tan” khiến cho ta hình dung về những làn khói sương như đang hoà tan vào trong ánh nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như trong mơ. Sắc vàng của nắng ngày càng trở nên rực rỡ qua hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy chợt nhà thơ đã bắt gặp một tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng trong tác phẩm một cách tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu cũng nhằm nhấn mạnh sự chuyển động của cảnh vật. Gió giống như đang trêu đùa cùng với tà áo biếc đón xuân sang, khiến cho không khí mùa xuân càng thêm trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ đã di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt ngay ở giữa câu thơ giống như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó chính là khoảnh khắc một thi nhân giật mình nhận ra được “bóng xuân sang”. Mùa xuân cũng được hữu hình hoá, có thể quan sát thấy bằng thị giác. Bóng của mùa xuân đang nhẹ nhàng bước tới như thể nó đang đứng ngay trước mặt nhà thơ, khiến cho con người ngỡ ngàng mà phải chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp lúc ấy.

Từ góc nhìn cận cảnh, Hàn Mặc Tử mở rộng tầm nhìn với một khung cảnh viễn cảnh muôn màu. Không gian của mùa xuân được mô tả như một bức tranh rộng lớn, với "cỏ xanh tươi gần tới trời" mở ra như là một dải sóng mênh mông. "Sóng" được kết hợp với thảm cỏ xanh mướt, tạo nên hình ảnh của các lớp cỏ nối tiếp nhau, lan tỏa vô tận, sức sống như đang bùng nổ mạnh mẽ. Ý thơ này gợi lại hình ảnh từ câu thơ trong "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du: "Cỏ non xanh tận chân trời." Sự diễn đạt này về không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận, nhưng điều độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách ông mô tả "sóng cỏ," tạo nên một sự chuyển động mượt mà, nhẹ nhàng của những lớp cỏ xuân. Có lẽ, sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo ra những đợt sóng và kết hợp để tạo nên một "mùa xuân chín" đặc sắc!

Đang từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh bỗng trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ cũng đã dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình đầy nồng hậu, thiết tha giữa con người và cuộc đời. Hoà cùng với một không khí tươi vui của mùa xuân, ta cũng thấy được cái náo nức từ trong lòng người:

“Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

Thuật ngữ 'Xuân xanh' được sử dụng như một hiểu biết ẩn dụ để mô tả những cô gái trẻ trung, tươi mới và xinh đẹp. Tuổi xuân của họ rực rỡ như mùa xuân trên trời đất. Niềm vui của những cô gái thôn nữ trong bầu không khí xuân tươi là tình xuân. Ánh nắng mặt trời có lẽ chính là ánh sáng hồng của đôi má của những cô gái khi họ "theo chồng bỏ cuộc chơi". Hạnh phúc của họ là tình yêu đôi lứa, là sự kết nối trong hôn nhân kéo dài đến già. "Mùa xuân chín" không chỉ là thời tiết xuân mà còn là tình xuân. Từ "chín" trong tình yêu chính là kết quả của sự hiểu biết và hòa hợp giữa vợ và chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái đã được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử cũng đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác vô cùng tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng giác quan thính giác, nay đã được hữu hình hóa trong trạng thái “vắt vẻo”, như cảm nhận được bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của những con người giống như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện một niềm thiết tha yêu đời rất mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như vẫn còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một thứ âm thanh vang vọng khắp trong không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lan vào và giao ứng với xuân tình ở trong lòng người, cả hai đã hòa nhập vào nhau ở trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng chính là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người cùng đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát ở trong lòng thiên nhiên cũng như đang cất lên thông qua lời hát của con người. 

Từ những âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng dần trở thành những lời thầm thì có chút nhỏ bé:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

  Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Câu thơ đã phảng phất tính tượng trưng, siêu thực ở trong thơ của Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” đã xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) một cách đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa ở khắp núi rừng nhưng nay thu lại và chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân của mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người cũng có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” ở trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo một nỗi buồn, niềm nuối tiếc của chàng người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng chính là lúc “xuân tàn”, cái đẹp mấy rồi cũng đến lúc tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân đầy tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng sẽ đến điểm kết. Ta thấy dâng lên ở trong lòng nhà thơ là một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, dường như muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử đã hoá thân trong một người “khách xa”, và đã bày tỏ nên nỗi nhớ nhung của mình:

“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy, năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. 

Trước "mùa xuân chín", trái tim của "khách xa" bỗng trào dâng nỗi nhớ về làng quê thân thương. Nhớ ánh nắng ửng, nhớ những mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi và tràn ngập nghĩa tình. Trong không gian ấy, hình ảnh người chị chịu gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. "Chị ấy" là một cách diễn đạt tưởng bày. Đó có thể là một người lao động bình thường trong làng quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc đơn giản là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, cho dù có hiểu theo cách nào, ta cũng sẽ thấy một niềm yêu quý và trân trọng của Hàn Mặc Tử đối với “chị”. Người con gái đã xuất hiện ở trong nét đẹp lao động với tư thế đang gánh thóc, hoà cùng với ánh nắng vàng bên trên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên đầy thơ mộng và lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy được rằng ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh và lấp lánh hơn nhiều ở trong dòng hồi tưởng của một người khách xa quê. 

Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của tác giả Hàn Mặc Tử có những sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Không chỉ đơn thuần một mùa xuân chín mà lòng người cũng đã “chín” cùng với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” ở trong tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng và tiêu biểu đã làm nên sự độc đáo của bài thơ “Mùa xuân chín” cũng như nổi bật được ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp vô cùng tài tình giữa những cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta đã bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa tinh tế với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ có phảng phất đâu đó chút phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” đã được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, cách ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là một đặc trưng tiêu biểu của thể thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần ở cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một cách tác giả giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố góp phần làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu khá nhiều ảnh hưởng của một chủ nghĩa là chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền bí, kỳ bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Nét bút của Hàn Mặc Tử đã đạt đến trình độ tinh tế trong việc sáng tạo những kết hợp từ ngữ mới: "mùa xuân chín," "bóng xuân sang," "đám xuân xanh," "tiếng ca vắt vẻo," nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hóa hình một cách tài năng, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ. 

Thơ của Hàn Mặc Tử đã bộc lộ một thế giới với nội tâm mãnh liệt cùng với những cung bậc cảm xúc đã được đẩy đến tột cùng. Đọc tác phẩm “Mùa xuân chín”, ta cũng nhận thấy Hàn Mặc Tử đã mượn một bức tranh xuân đầy tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày có thể tỏ cái “xuân chín” ở trong lòng người. “Chín” ở trong tình thương, “chín” từ trong nỗi nhớ về những con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết đó chính là một tấm lòng khát khao mãnh liệt được giao cảm với cuộc đời, trân trọng những cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những điều tinh tuý, đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Khao khát ấy cũng trở thành sợi chỉ xuyên suốt ở trong toàn bộ những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên một giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ vẫn sẽ còn âm vang mãi cho đến ngày nay. 

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học sách Kết nối tri thức 10 tập 2. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-viet-van-ban-nghi-luan-phan-tich-danh-gia-mot-tac-pham-van-hoc-sach-van-10-ket-noi-tri-thuc-2718.html

 

 

Tovább

Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 68 sách văn 10 kết nối tri thức

Học sinh nên tích cực thực hiện các hoạt động củng cố, mở rộng kiến thức để nắm vững kiến thức, nâng cao năng lực tư duy và sáng tạo. Dưới đây là bài soạn Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 68 sách văn 10 kết nối tri thức mà VUIHOC mang lại nhằm giúp các em rèn luyện kiến thức. Mời các em cùng tham khảo.

Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 68 sách văn 10 kết nối tri thức

1. Câu 1 trang 68 SGK Văn 10/2 kết nối tri thức

Nội dung

Người cầm quyền khôi phục uy quyền

Dưới bóng hoàng lan

Một chuyện đùa nho nhỏ

Ngôi của người kể chuyện

Ngôi thứ ba

Ngôi thứ ba

Ngôi thứ nhất

Nhân vật chính

Giăng-van-giăng, Gia-ve, Phăng- in

Nhân vật Thanh, Nga

Na-đi-a, nhân vật tôi

Điểm nhìn

Điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện: điểm nhìn thay đổi theo từng nhân vật

Điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện: dưới góc nhìn của nhân vật Thanh

Điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện: dưới góc nhìn của nhân vật xưng “tôi”

Chủ đề

Những người có uy quyền trong cuộc sống

Thiên nhiên bình yên, giản dị với những kỉ niệm ấm áp

Hồi ức về kỉ niệm đẹp, nhỏ bé trong quá khứ

2. Câu 2 trang 69 SGK Văn 10/2 kết nối tri thức

Nội dung

Người kể chuyện thứ nhất

Người kể chuyện thứ ba

Dấu hiệu để nhận biết

Người kể chuyện xưng “tôi”

Người kể chuyện giấu mình, không xưng “tôi”

Chức năng của lời kể

Có tác động chủ quan đến câu chuyện

Tác động khách quan đến câu chuyện

Khả năng bao quát điểm nhìn

Khả năng bao quát không rộng, câu chuyện mang tính chủ quan nhiều hơn

Khả năng bao quát rộng, câu chuyện mang tính khách quan hơn

Quan hệ với các nhân vật trong truyện

Là người trực tiếp chứng kiến câu chuyện, có mối quan hệ mật thiết, có tác động đến các nhân vật trong truyện

Không thân thiết, gần gũi, mà chỉ là nghe và kể lại

Khả năng tác động đến người đọc

Tạo độ tin cậy cao cho độc giả, khả năng tác động cao

Mang lại độ tin cậy không cao, khả năng tác động thấp

>> Xem thêm: Soạn văn 10 Kết nối tri thức

3. Câu 3 trang 69 SGK Văn 10/2 kết nối tri thức

- Những dấu hiệu có thể giúp cho ta nhận biết lời nhân vật trong tác phẩm truyện:

+ Lời thoại gắn với một nhân vật cụ thể.

+ Lời biểu thị ý thức, suy nghĩ và tâm trạng, nó mang cách thể hiện của nhân vật cụ thể.

- Lời nhân vật trong truyện thường tồn tại ở 2 dạng: lời thoại trực tiếp và lời thoại gián tiếp.

4. Câu 4 trang 69 SGK Văn 10/2 kết nối tri thức

a)  Tìm ý và lập dàn ý

  • Mở bài: 

Giới thiệu đôi nét về tác giả Thạch Lam, khái quát truyện “Dưới bóng hoàng lan”, nhân vật Thanh và chủ đề của truyện

  • Thân bài: 

- Khái quát về tác phẩm.

- Giới thiệu qua nội dung của tác phẩm: Truyện “Dưới bóng hoàng lan” nói về nhân vật Thanh thông qua một lần trở về quê hương, thăm bà và được gặp lại những người anh luôn yêu thương, tôn trọng.

- Phân tích nhân vật từ đó làm rő chủ đề:

+ Giới thiệu về hoàn cảnh mà nhân vật xuất hiện: không gian, thời gian, ngoại hình và cả tính cách nhân vật.

+ Tâm trạng của nhân vật Thanh theo trình tự thời gian của truyện: khi bước vào nhà, trong lúc nói chuyện với bà và trong lúc nói chuyện với nhân vật Nga.

+ Tâm trạng của Thanh có ảnh hưởng gì đến việc thể hiện chủ đề của tác phẩm.

- Ý nghĩa nhân vật và chủ đề đem lại: Tác phẩm Dưới bóng hoàng lan là một câu chuyện nhẹ nhàng, giản dị nhưng lại đầy tinh tế, sâu sắc, bởi nó mang đến cho độc giả cảm giác thư thái, nhẹ nhàng thông qua câu chuyện của nhân vật Thanh.

  • Kết bài: 

Khẳng định lại ý nghĩa của nhân vật đối với việc làm nổi bật chủ đề.

 

b) Viết đoạn

  • Mở bài:

Nhà văn Thạch Lam là một cây bút tiêu biểu của nhóm Tự lực văn đoàn, ông cũng là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam những năm 1930- 1945. Tuy sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm văn chương của Thạch Lam luôn thấm đượm những giá trị nhân văn sâu sắc. Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Xoay quanh câu chuyện về một lần trở về thăm quê của nhân vật Thanh, truyện khai thác diễn biến tâm trạng của nhân vật một cách tinh tế, từ đó đã làm nổi bật lên chủ đề. Đó là những tình cảm giản dị, đơn sơ, thân thuộc hay những khung cảnh bình dị, thân quen nhưng vẫn luôn đủ sức để nâng đỡ tâm hồn của con người.

  • Một đoạn trong thân bài: Một đoạn trong phần phân tích tâm trạng của nhân vật Thanh khi vừa trở về nhà.

Chuyện kể về một chàng trai mồ côi cả cha mẹ, hai bà một cháu quấn quýt nhau. Thanh lên tỉnh làm rồi đi về hàng năm vào các ngày nghỉ. Lần trở về này đã cách kỳ về trước hai năm. Có phải cuộc sống thị thành đã nhiều lúc khiến cho Thanh quên người bà tóc bạc phơ đang sống những ngày cuối cùng trong đời, luôn mỏi mắt trông chờ anh. Đáp lại tiếng gọi bà ơi, một cái bóng nhẹ từ bên trong vụt ra và rơi xuống mặt bàn. Anh chàng định thần, nhìn con mèo của nhà anh. Thanh mỉm cười đi lại gần vuốt ve con mèo “Bà mày đâu”. Cũng như bao lần khác, Thanh trở lại ngôi nhà cũ nhưng dường như ngôi nhà thân thuộc ấy phần nào đó lại khiến cho anh chàng cảm thấy hồi hộp bồi hồi đến kì lạ, nó khiến anh thấy cảm động quá. Chốn Thanh về mọi thứ vẫn đều già cỗi và không đổi. Thời gian như quay ngược lại, không gian thì đứng lặng. Phong cảnh nơi đây vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà anh vẫn tóc bạc phơ và hiền từ. Trong khung cảnh bình yên và thong thả của chốn quê xưa, một hình ảnh tươi mát hiện lên. Khu vườn xưa hiện lên trước mắt Thanh với con đường Bát Tràng rêu phủ cùng những vòm ánh sáng lọt qua vòm cây với bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà với cả mùi lá tươi non phảng phất trong không khí. Tất cả hình ảnh ấy hiện lên trước mắt chàng thanh niên vốn quen thuộc nhưng lại rất mát mẻ và dịu dàng lạ thường. Và hình ảnh những cô gái xinh xắn trong tà áo trắng, cùng mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ, bên cạnh mái tóc bạc trắng của bà anh cũng khiến cho chàng thanh niên trẻ xốn xang và hơi dao động phần nào. Thanh cảm thấy không gian náo nhiệt ồn ào ngoài kia dường như đang dừng lại trên bậc cửa.

5. Câu 5 trang 69 SGK Văn 10/2 kết nối tri thức

  • Tìm ý và sắp xếp ý:

- Giới thiệu khái quát về nhân vật Thanh: Thanh là một chàng trai mồ côi, sống cùng với một người bà. Anh chàng có một tuổi thơ tuy sống vất vả nhưng mà luôn tràn đầy hơi ấm, tình yêu và sự chở che của người bà.

- Phân tích tâm trạng của nhân vật Thanh trong từng diễn biến câu chuyện: Khi gặp bà, Thanh có tâm trạng vui mừng và nhớ nhung; lúc nhìn thấy cây hoa hoàng lan thì anh lại cảm thấy nhẹ nhőm, thoải mái khi về lại chốn xưa; tiếp đến là tâm trạng bồi hồi, thương nhớ khi nhìn thấy Nga và cảm xúc về thứ tình yêu trong sáng của đôi lứa; cuối cùng chính là tâm trạng khi phải xa nhà.

- Từ những ý phân tích tâm trạng nhân vật Thanh, chỉ ra chủ đề của tác phẩm: chủ đề về những thứ tình cảm như gia đình, tình yêu lứa đôi và thấm đượm hương vị tình người qua khung cảnh bức tranh thiên nhiên của làng quê yên bình.

  • Luyện tập nói: Cần luyện lập thường xuyên để có thể cải thiện kĩ năng nói trước đám đông sao cho tự tin, mạch lạc và hiệu quả

6. Câu 6 trang 69 SGK Văn 10/2 kết nối tri thức

- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng được kể bằng ngôi thứ nhất. Chuyện kể về cuộc gặp gỡ và chia xa giữa hai cha con ông Sáu và bé Thu, từ đó đã khái quát tình cảm cha con sâu nặng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. 

- Truyện ngắn “Dế Mèn phiêu lưu ký” của nhà văn Tô Hoài được kể bằng ngôi thứ nhất. Đó là câu chuyện về thế giới loài vật thông qua hành trình của nhân vật Dế Mèn, tác giả đã gửi gắm vào trang viết những bài học về cách sống của con người.

 

Trên đây VUIHOC đã cùng các bạn Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 68 sách văn 10 kết nối tri thức. Hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này. Để học nhiều hơn các kiến thức của các môn học thì các em hãy nhanh tay truy cập và website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-cung-co-mo-rong-trang-68-sach-van-10-ket-noi-tri-thuc-2717.html

 

 

 

 

Tovább

Soan bai tri thong minh nhan tao

Bài viết này VUIHOC sẽ cùng các em tìm hiểu về một chủ đề thú vị được mọi người quan tâm đó chính là Trí thông minh nhân tạo. VUIHOC cùng các em chuẩn bị trước Soạn bài Trí thông minh nhân tạo sách kết nối tri thức 11 tập 2. Sau khi soạn, các em có thể biết thêm nhiều thông tin hữu ích về công cụ hiện đại này.

1. Soạn bài trí thông minh nhân tạo sách kết nối tri thức: Trước khi đọc 

Chia sẻ những điều em đã biết và muốn được biết về trí thông minh nhân tạo.

Gợi ý:

Những điều em đã biết: Trí tuệ nhân tạo hay trí thông minh nhân tạo (tiếng anh là Artificial Intelligence – viết tắt là AI) là một ngành thuộc về lĩnh vực khoa học máy tính (tiếng anh là Computer science). Là trí tuệ do con người lập trình với mục tiêu giúp cho máy tính có thể tự động hóa những hành vi thông minh như con người. Cụ thể: biết suy nghĩ và lập luận để có thể giải quyết được vấn đề, biết giao tiếp vì hiểu ngôn ngữ, tiếng nói, biết tự học hỏi và thích nghi, …Công nghệ AI tạo ra máy móc cùng với hệ thống thông minh dựa vào việc sử dụng mô hình máy tính, kỹ thuật và công nghệ có liên quan, giúp thực hiện được các công việc yêu cầu đến trí thông minh của con người. Nhìn chung, đây là một ngành học rất rộng, bao gồm những yếu tố tâm lý học, khoa học máy tính và kỹ thuật. Một số ví dụ phổ biến về AI đó là phần mềm dịch thuật tự động, ô tô tự lái, trợ lý ảo trên điện thoại hoặc đối thủ ảo khi chơi các trò chơi trên điện thoại.

Điều em muốn biết chính là trong tương lai, trí tuệ nhân tạo có thực sự thay thế được con người hay không?

 

2. Soạn bài trí thông minh nhân tạo sách kết nối tri thức: Trong khi đọc 

2.1 Đọc nhan đề và đoạn mở đầu, xác định chủ đề của văn bản.

Chủ đề: Công nghệ AI đã tiến dần vào cuộc sống của con người

2.2 Chú ý các mốc thời gian và số liệu trong đoạn văn. 

Từ năm 2008 - 2040 thì AI sẽ có thể chính thức đương đầu với những nhà thiết kế ra nó. Số liệu trong văn bản đó là 10 tỉ lệnh mỗi giây.

2.3 Tóm tắt nội dung chính trong đoạn văn.

AI là trí thông minh được sử dụng để bổ sung thay vì vượt qua trí tuệ loài người. Trong tương lai, AI sẽ có khả năng học hỏi trong lúc vận hành và phản ứng lại với những sự kiện bất ngờ. Ví dụ như: chẩn đoán về bệnh và phẫu thuật, lập kế hoạch cho quân sự và ra lệnh chiến đấu, chăm sóc khách hàng một cách tự động hóa, những chú rô-bốt với trí óc sáng tạo và tính tự động nhân tạo có khả năng dự đoán và đối phó với tội phạm.

2.4 Những quan niệm khác nhau về khả năng của trí thông minh nhân tạo

Ray Kurzweil - nhà tương lai học và nhà phát minh người Mỹ đã từng công khai đánh cược với Mitchell Kapor - người sáng lập ra công ty phần mềm Lotus, rằng máy tính sẽ vượt qua được bài kiểm tra Tu-rinh vào năm 2029. Nhưng nhiều chuyên gia khác nói không, Bill Calvin- nhà thần kinh học lý thuyết người Mỹ, cho rằng não loài người phức tạp đến mức máy tính sẽ không thể nào mô phỏng được, hoặc nếu có chúng sẽ tiếp thu cả điểm yếu và không toàn vẹn về cảm xúc bên cạnh trí thông minh tuyệt vời của con người.  

2.5 Cách đặt câu hỏi về suy luận của tác giả về những điều có thể xảy ra trong tương lai.

Cách suy luận và đặt câu hỏi của tác giả vô cùng độc đáo, nó không chỉ giúp làm nổi bật vấn đề mà chúng ta đang muốn đề cập đến mà nó còn giúp cho chúng ta dễ dàng nắm bắt được những thông tin một cách chính xác hơn và trả lời những câu hỏi một cách chặt chẽ hơn nhằm làm sáng tỏ vấn đề đang bàn luận.

2.6 Các từ ngữ liên kết thể hiện mối quan hệ giữa các ý chính, ý phụ trong đoạn văn.

Các từ ngữ liên kết như thứ nhất và thứ hai và quan hệ từ "nếu - thì". 

3. Soạn bài trí thông minh nhân tạo sách kết nối tri thức: Sau khi đọc 

3.1 Câu 1 trang 74 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức 

Hãy sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ để tóm tắt ra các mốc thời gian cùng các thành tựu chính trong quá trình phát triển của trí thông minh nhân tạo. Các thông tin ấy gợi cho bạn những suy nghĩ gì?

3.2 Câu 2 trang 74 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Đánh giá hiệu quả thông tin của sơ đồ đã được tác giả sử dụng.

Trả lời:

Sơ đồ được tác giả sử dụng đã trực quan hóa những mốc thời gian và các sự kiện quan trọng trong quá trình phát triển của trí thông minh nhân tạo. Nhờ việc sử dụng sơ đồ, các thông tin này đã được trình bày ngắn gọn, mạch lạc và logic, giúp cho người đọc dễ nắm bắt được thông tin.

3.3 Câu 3 trang 74 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Xác định chủ đề, những ý chính, ý phụ và cách trình bày dữ liệu của văn bản.

Trả lời:

Chủ đề 

Ý chính

Ý phụ

Dự báo về sự phát triển của trí thông minh nhân tạo 

Tốc độ phát triển của trí thông minh nhân tạo

- 1956: đặt ra thuật ngữ về trí thông minh nhân tạo
- 2008: máy tính cá nhân có khả năng xử lý được khoảng 10 tỷ lệnh mỗi giây.
- 2040: máy tính được dự đoán có khả năng xử lý gần 100 nghìn tỉ lệnh trên mỗi giây.
 

Những loại trí thông minh nhân tạo

AI mạnh
AI yếu
 

Những quan điểm trái chiều về trí thông minh nhân tạo

- Một số người tin rằng khả năng học hỏi và phản ứng của máy tính.
- Một số người cho rằng máy tính không thể nào vượt qua được não bộ của con người.
 

Tác động của trí thông minh nhân tạo đến đời sống con người

- Nuôi dưỡng những ý tưởng, danh tiếng và thông tin.
- Giúp người mua và người bán tạo ra được nhiều hàng hóa hơn.
- Tạo ra được nhiều tri thức hơn với ít thiên lệch và theo đuổi một dải những quy định rộng hơn.
 

Dự đoán về những viễn cảnh có thể xảy ra

- Phải chăng não bộ của con người chỉ như bộ máy vật chất, có thể bị thay thế bằng máy móc và con người có thể đạt đến sự hợp nhất với máy móc?
- Khi máy móc trở nên thông minh, điều gì có thể sẽ xảy ra với những người đang làm những việc mà máy móc có thể đảm nhiệm trong tương lai?
 

3.4 Câu 4 trang 74 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Theo bạn, những ý kiến trái chiều về sự phát triển của trí thông minh nhân tạo cùng với những câu hỏi ở phần cuối văn bản cho thấy sự quan điểm và thái độ gì của tác giả?

Trả lời:

Tác giả đã cho rằng có rất nhiều người đang nghi ngờ về sự phát triển của công nghệ AI diễn ra quá nhanh chóng.

Những câu hỏi cuối bài để gợi mở cho người đọc một cái nhìn rất khách quan về vấn đề AI ngày càng phát triển và có tác động to mạnh đến đời sống con người. Bài viết cho thấy tác giả đang muốn cảnh báo thế giới tương lai không nên quá lạm dụng việc sử dụng công nghệ AI.

 

3.5 Câu 5 trang 74 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

 Tác giả đã đưa ra những dự đoán gì trong tương lai của trí tuệ nhân tạo? Bạn có đồng tình với những dự đoán ấy không? Vì sao?

Trả lời:

Tác giả đã dự đoán rằng loài người sẽ phải bước vào một kỉ nguyên tiến hóa mới, thời điểm mà chúng ta bắt đầu hợp nhất lại với máy móc và đạt được sự bất tử tại một mức nào đó. Thứ hai ngay cả khi máy móc không đạt được độ tinh tế như đã nói thì nhiều khả năng chúng sẽ trở nên vô cùng thông minh. Vậy nên trong tương lai máy móc có thể đảm nhận nhiều chức năng giống như con người ở thời điểm hiện tại. 

Em không đồng tình với dự đoán phía trên của tác giả vì máy móc là do con người thiết lập ra cho nên những chỉ số của chúng đều sẽ được kiểm soát dưới sự nghiên cứu của con người. Nên việc chúng sẽ xâm chiếm vào thế giới loài người là không có khả năng, nếu như có một sự cố nào có thể xảy ra thì con người sẽ nhanh chóng khắc phục được tình huống.

3.6 Câu 6 trang 74 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Tìm hiểu thêm những tác phẩm nghệ thuật về trí thông minh nhân tạo. Bạn suy nghĩ như thế nào khi liên hệ những thông tin trong văn bản với các tác phẩm nghệ thuật mình đã biết?

Trả lời:

Lần đầu tiên trung tâm triển lãm tại thủ đô Paris của Pháp, tổ chức một buổi trưng bày những tác phẩm nghệ thuật được làm ra bởi Trí tuệ nhân tạo (AI), (từ ngày 4/12/2022 đến ngày 14/01/2023). Với tên gọi là 7.1, nhóm nghệ sĩ Obvious đã giới thiệu với công chúng về 7 kỳ quan của thế giới cổ đại, được phục dựng cũng như tái hiện lại với một góc nhìn hết sức mới lạ, do trí tuệ nhân tạo làm ra. Vì muốn giữ được những yếu tố nghệ thuật nên các bức tranh mà AI tạo ra cũng được một hoạ sĩ vẽ nguyên bản bằng màu. Thay vì ký tên của tác giả: Obvious, các bức tranh được ký hiệu bằng một dãy số, thuật toán tạo ra tác phẩm đầu tiên cho nhóm. Để nhắc nhở mọi người rằng đó chính là sáng tạo của AI. Tác phẩm nghệ thuật đó đã cho em thấy có những nhiếp ảnh gia phải dành cả đời để có thể tìm kiếm chủ đề chụp ảnh. Có rất nhiều thứ có thể thực hiện để tạo ra một bức ảnh đẹp, ví dụ như căn góc hoặc cài đặt máy ảnh riêng biệt. Đối với nghệ thuật có sử dụng Trí tuệ nhân tạo cũng tương tự như thế. Đây là một phong trào nghệ thuật, dành cho những đối tượng thông thạo lập trình và những yếu tố kỹ thuật khác, có thể tạo ra được những thứ mới lạ và thú vị, thông qua việc sử dụng các thuật toán. Trí tuệ nhân tạo là nói về một công cụ phục vụ cho con người. Một là chúng ta sẽ phải chấp nhận việc hợp tác với công cụ này để có thể tạo ra được nhiều tác phẩm hơn và sáng tạo theo cách khác biệt. Hai là chúng ta sẽ ruồng bỏ thứ công nghệ này, và có thể nói : “Được thôi, tôi không muốn loại công nghệ này tồn tại” ! Vấn đề là cho dù trong trường hợp nào thì công nghệ cũng sẽ không ngừng phát triển. Câu hỏi đặt ra đó là chúng ta sẽ sử dụng chúng như thế nào.

4. Kết nối đọc - viết trang 74 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Viết đoạn văn ngắn (khoảng 150 từ) để tóm tắt những thông tin thú vị mà bạn vừa thu thập được về trí thông minh nhân tạo.

Đoạn văn tham khảo:

Trí thông minh nhân tạo được coi là một phát minh vĩ đại của con người vào thế kỉ XX bởi nó mang đến rất nhiều lợi ích cho cuộc sống của chúng ta. Từ việc thay thế cho con người trong lĩnh vực công nghiệp nặng hoặc độc hại. Ngày nay, với sự phát triển hết sức vượt bậc của nó, AI đang dần dần thay thế con người trong các ngành dịch vụ như nhà hàng, thu ngân và quán ăn… Và gần đây nhất chính là sự kiện kết hôn của con người với rô bốt, sự kiện ấy đã đặt ra một câu hỏi lớn rằng rô bốt có thực sự thay thế được con người trong tương lai gần phải không? Không ai có thể biết được câu trả lời cho câu hỏi này vì sự phát triển của AI sẽ vẫn sẽ được tiếp diễn và chúng ta không thể làm gì được ngoài việc kiểm soát tốt chúng bằng trí thông minh của chúng ta. Vì vậy, con người phải thật sự tỉnh táo với việc sử dụng trí thông minh nhân tạo. 

 

Bài viết trên đã trả lời rất chi tiết các câu hỏi khi Soạn bài Trí thông minh nhân tạo sách kết nối tri thức 11 tập 2. Sau khi đọc bài soạn tham khảo, hy vọng các em có thể tiếp thu được thêm nhiều thông tin thú vị về công cụ hiện đại này để ứng dụng nó một cách hợp lý vào đời sống. Để học thêm nhiều tác phẩm khác thuộc chương trình ngữ văn 11 hoặc nội dung các môn học khác, các em hãy nhanh chóng truy cập vào website vuihoc.vn rồi đăng ký khoá học của VUIHOC để có thể học được nhiều kiến thức hay nhất cùng các thầy cô nhé!

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-tri-thong-minh-nhan-tao-sach-ket-noi-tri-thuc-11-tap-2-2435.html

 

 

Tovább

Soan bai nu phong vien dau tien

Tác phẩm “Nữ phóng viên đầu tiên” kể về Manh Manh, người tiên phong cho nữ quyền và cho thơ mới trong hội Tao Đàn. Bà được đánh giá rất cao trong cộng đồng và báo chí. Cùng VUIHOC Soạn bài Nữ phóng viên đầu tiên sách kết nối tri thức để hiểu hơn về nghệ thuật và nội dung tác phẩm này nhé!

1. Soạn bài nữ phóng viên đầu tiên sách kết nối tri thức: Trước khi đọc 

Hãy chia sẻ những điều em đã biết về cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam trong thời phong kiến và giai đoạn đầu thế kỉ XX

Lời giải:

Đời sống của những người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến và giai đoạn đầu thế kỉ XX rất khổ cực, bất hạnh và phải chịu nhiều nỗi đau đớn. Họ đã gặp phải rất nhiều khó khăn và trở ngại. Ví dụ như vào thời phong kiến, phụ nữ không có quyền đi học hoặc ra ngoài chơi mà luôn phải ở nhà để chăm con và làm công việc nhà. Vào giai đoạn đầu thế kỉ XX, phụ nữ vẫn tiếp tục bị chèn ép đủ đường vì chính sách nô dịch hà khắc thời phong kiến. 

>> Xem thêm: Soạn văn 11 đầy đủ và chi tiết theo chương trình sách mới

2. Soạn bài nữ phóng viên đầu tiên sách kết nối tri thức: Trong khi đọc 

2.1 Nhận xét cách mở đầu văn bản của tác giả.

Cách mở đầu của văn bản là một câu hỏi gợi mở ra cho độc giả, gây được sự tò mò thích thú cho người đọc. Cách mở đầu văn bản vô cùng sáng tạo khi đặt ra câu hỏi tu từ, gợi ra sự tò mò của người đọc, đồng thời nó cũng làm hé mở ra phần nội dung của tác phẩm ở đoạn sau.

2.2 Tóm tắt các hoạt động chính của nhân vật.

Manh Manh nữ sĩ có tên thật là Nguyễn Thị Kiêm sinh năm 1914, mất năm 2005, con ông tri huyện Nguyễn Đình Trị, có quê quán ở Gò Công. 

Bà học tại Trường Trung học Nữ sinh bản xứ đến tú tài sau đó bước vào nghề báo. Ban đầu bà chỉ là một phóng viên thường, viết cho các mục nhỏ với bút hiệu là YM, Nguyễn Văn MYM. 

Sau khi Phan Khôi đăng bài thơ Tình già (Phụ nữ Tân văn, số 122, ngày 10/3/1932) thì tên tuổi của bà sáng lên thông qua bút danh Nguyễn Thị Manh Manh hoặc tên thật khi ủng hộ Thơ mới và chiến đấu cho nữ quyền. 

Bà Khiêm đã xuất hiện trong thời kỳ này khi mới chỉ mười bảy tuổi. Có lẽ vì còn quá trẻ nên bà cũng chỉ được làm phóng viên bình thường, thỉnh thoảng viết ra một bài về nữ quyền. Sau đó, khi mạnh mẽ ủng hộ cho Thơ mới, bà bắt đầu nổi tiếng hơn với những cuộc diễn thuyết. 

2.3 Chú ý các trích dẫn trực tiếp

- “Vì có nhiều vấn đề đáng quan tâm hơn là thơ nên chúng tôi hoãn lại việc đăng lên báo ... và phê bình luôn có thể.”

- “Từ hai tháng trước, hôm 26 Juillet 1993, ...một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế. “

- “Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị đẹt mất ... lối thơ xưa nên gọi là Thơ mới.”

...

2.4 Hình ảnh được sử dụng có thể gợi ấn tượng gì cho người đọc?

Buổi diễn thuyết đã thu hút được đông đảo thành phần tham gia.

2.5 Lời nói và hành động của nhân vật thể hiện tư tưởng gì? Những tư tưởng đó có ảnh hưởng đến xã hội như thế nào?

Lời nói và hành động của nhân vật đã thể hiện tư tưởng dân chủ về những quan niệm mới mẻ nam nữ bình đẳng. 

2.6 Ngoại hình nhân vật được khắc họa như thế nào, nhằm mục đích gì?

Ngoại hình của nhân vật được khắc họa là một người thấp lùn cùng dáng vẻ núc ních, mặt má miếng bầu và môi nhọn như mỏ chim,... đôi mắt sáng ngời thể hiện sự thông minh, ăn nói mau lẹ, gọn gàng và duyên dáng. Nhằm mục đích khắc họa về vẻ ngoài xấu và cái đẹp trong phong thái của bà. 

2.7 Những thông tin này gợi cho bạn suy nghĩ gì?

Những công lao đóng góp của bà đã và đang dần bị lãng quên. 

3. Soạn bài nữ phóng viên đầu tiên sách kết nối tri thức: Sau khi đọc 

3.1 Câu 1 trang 70 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức 

Văn bản đã được triển khai theo trình tự nào? Đánh giá về hiệu quả của việc triển khai văn bản theo trình tự ấy.

Trả lời:

Văn bản đã được triển khai theo trình tự thời gian từ thời niên thiếu của nhân vật đến lúc cuối đời. Việc triển khai văn bản theo trình tự ấy sẽ bao quát được toàn bộ cuộc đời của nhân vật một cách tuần tự và rő ràng nhất. 

3.2 Câu 2 trang 70 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Phong trào xã hội nào đã được nhắc đến trong văn bản? Theo em, cách tác giả viết về phong trào đó có điểm gì đặc biệt?

Trả lời:

Phong trào xã hội đã được nhắc đến trong văn bản chính là chủ nghĩa phụ nữ. Theo em, cách tác giả viết về phong trào này là vô cùng tôn trọng.

3.3 Câu 3 trang 70 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Hãy nhận xét về cách giới thiệu chân dung của nhân vật trong văn bản. Theo bạn, chân dung đó có được tái hiện một cách khách quan hay không? Tại sao?

Trả lời:

Nhân vật đã được tái hiện dưới nhiều bình diện (tiểu sử, dung mạo và các hoạt động đời sống xã hội, cá nhân), với nhiều tư cách khác nhau: một người phụ nữ, một nhà báo, một thi sĩ hay một nhà hoạt động xã hội. Tác giả không chỉ trần thuật lại về những sự kiện và hoạt động của nhân vật mà còn trích dẫn trực tiếp những lời nói của bà, lời nhận xét và đánh giá của người đương thời về nhân vật. Việc trích dẫn trực tiếp ấy làm nổi bật lên quan điểm, đặc biệt là tính cách cá nhân nhân vật, đồng thời cũng giúp tái hiện lời ăn tiếng nói cũng như không khí của cuộc tranh luận, đối thoại rất sôi nổi của cuộc sống xã hội Việt Nam thời kì này.

3.4 Câu 4 trang 70 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Bạn hình dung như thế nào về không khí thời đại đã được tái hiện trong văn bản? 

Trả lời:

Không khí thời đại đã được tái hiện trong văn bản thông qua các phong trào và các cuộc biểu tình đòi quyền lợi dành cho người phụ nữ. Đó là lúc đời sống văn hóa và xã hội Việt Nam trong buổi giao thời, khi đó có sự xung đột, giao tranh giữa cái cũ với cái mới, giữa những định kiến về người phụ nữ với những nỗ lực của cá cá nhân, tổ chức đấu tranh để khẳng định tự do và bình đẳng cho người phụ nữ. Văn bản cũng mô tả được cục diện trăm hoa đua nở của báo chí vào thời kì đầu, không khí đối thoại và tranh luận diễn ra vô cùng sôi nổi trong lĩnh vực báo chí, không gian cộng đồng cùng những thay đổi mạnh mẽ trong ý thức hệ của người dân.

3.5 Câu 5 trang 70 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Qua văn bản, bạn biết được thêm điều gì về phong trào Thơ mới?

Trả lời:

Qua văn bản, ta có thể thấy được rằng phong trào Thơ mới đã từng diễn ra vô cùng mạnh mẽ và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của quần chúng nhân dân. Nội dung của Thơ mới hết sức đa dạng, nó không chỉ xoay quanh những câu chuyện bình thường như nỗi xa nhà, xa quê, tình yêu quê hương hay đất nước mà nó còn mang tới nội dung về bình đẳng giới, về nữ quyền mà những người phụ nữ luôn muốn gửi gắm. Sự lan tỏa của phong trào chính là khi phụ nữ dám nói lên tiếng nói của mình. 

3.6 Câu 6 trang 70 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Bài viết gợi cho bạn suy nghĩ gì về vị thế của phụ nữ trong các cuộc vận động xã hội?

Trả lời:

Từ bài viết, ta có thể thấy được vị thế của phụ nữ trong những cuộc vận động xã hội có vai trò hết sức đặc biệt. Trong gia đình, người phụ nữ thường đóng vai trò làm mẹ, làm vợ và quán xuyến mọi công việc từ nhà cửa đến bếp núc. Không phủ định được sự quan trọng của đàn ông trong gia đình nhưng nếu thiếu phụ nữ thì cũng rất khó khăn. Không chỉ có vai trò quan trọng với gia đình mà còn trong xã hội, phụ nữ cũng có khả năng nắm những vai trò quan trọng.

4. Kết nối đọc - viết trang 70 SGK Văn 11/2 kết nối tri thức

Vị thế của phụ nữ hiện nay đã thay đổi như thế nào khi so với vị thế của phụ nữ Việt Nam vào đầu thế kỉ XX? Hãy viết đoạn văn ngắn để trình bày hiểu biết của em về vấn đề này.

Đoạn văn tham khảo:

Người phụ nữ luôn có vai trò và vị thế rất lớn trong cuộc sống hiện đại. Nếu gia đình được coi như một tế bào của xã hội thì người phụ nữ sẽ được coi là hạt nhân của tế bào đó. Gia đình là nơi thể hiện được sự bình đẳng và nâng cao vị thế của những người phụ nữ. Bên cạnh đó, người phụ nữ trong thời hiện đại càng không thể nào tách rời với thực tế gia đình và xã hội. Bởi chính tại hai môi trường ấy, người phụ nữ mới có thể thực hiện được đầy đủ chức năng của mình. Điều cần làm là làm thế nào để gia đình và xã hội tạo được những điều kiện thuận lợi cho phụ nữ để họ phát huy được khả năng đó.

Trước hết, người phụ nữ cần có một việc làm ổn định để đảm bảo được cuộc sống, có cơ hội học tập nhằm nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ, tham gia ngày càng nhiều hơn vào những hoạt động xã hội, các đoàn thể và câu lạc bộ, có thời gian để hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, chăm sóc cho sức khỏe và làm đẹp cho chính mình. Trong xã hội hiện nay, người phụ nữ ngoài công việc thực hiện thiên chức, vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình còn phải không ngừng học hỏi và rèn luyện để có thể trở thành người có tri thức, có văn hóa, có kỹ năng sống và khả năng tính toán, có sức khỏe tốt để tiếp cận và nắm bắt kịp thời những kiến thức khoa học, thực tiễn để phục vụ công tác. Thực tế, ngày càng có nhiều người phụ nữ tham gia vào các hoạt xã hội hơn cả nam giới và họ đã dám mạnh dạn ứng cử, xung phong làm những công việc mà từ trước đến nay được coi là phù hợp với nam giới. Họ đã thật sự thoát ra khỏi những định kiến và lễ giáo cổ hủ, hà khắc để sống tốt hơn và đem lại nhiều đóng góp hơn cho gia đình và xã hội. Phải nói rằng, khi xã hội có sự bình đẳng giới, nhận thức về vai trò cùng với vị thế của phụ nữ đã thay đổi hoàn toàn. Họ không còn quẩn quanh với những công việc nội trợ mà còn tích cực tham gia vào nhiều hoạt động xã hội, không ngừng nghiên cứu và không ít người trong số họ đã có thể đạt đến những địa vị rất cao trong tất cả các lĩnh vực.

Tuy những thành tựu về khoa học kỹ thuật hiện đại đã phần nào hỗ trợ cho người phụ nữ, giảm bớt được sức lao động cho họ trong công việc nội trợ nhưng người phụ nữ vẫn là người đảm nhận công việc nhà, từ việc bếp núc đến việc dạy dỗ con cái, chăm lo cho đời sống tinh thần của các thành viên trong gia đình. Cộng với thời gian làm việc bên ngoài xã hội, quỹ thời gian dành cho việc hưởng thụ những giá trị văn hóa tinh thần cùng việc học tập nâng cao trình độ kiến thức của phụ nữ cũng rất hiếm hoi, thậm chí ở một số đối tượng là phụ nữ như công nhân, buôn bán thì quỹ thời gian này gần như không có. Bên cạnh đó, nguy cơ bạo lực gia đình cũng đang là mối đe dọa cho nhiều phụ nữ. Trong khi đó, ở đâu bạo lực gia đình xuất hiện thì ở đó đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ cũng đều bị tổn thương.

Để phát huy được vai trò và vị thế của phụ nữ đối với sự phát triển của xã hội, bên cạnh sự nỗ lực của chính họ, chị em phụ nữ cũng cần được sự ủng hộ và hỗ trợ tích cực từ phía gia đình cùng xã hội; Vì vậy, một mặt, mỗi người phụ nữ đều cần tích cực học tập, rèn luyện và nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống ngày nay. Một mặt, các thành viên trong gia đình và xã hội cũng cần tạo điều kiện để những người phụ nữ có thời gian học tập và tham gia hoạt động xã hội, có thời gian để nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí và chăm sóc sức khỏe để vừa thực hiện tốt nhất vai trò của mình trong gia đình lại vừa đóng góp được cho xã hội; từng bước nâng cao vị thế của họ cũng như xây dựng một gia đình hạnh phúc và bền vững.

 

Chủ đề về nữ quyền luôn là chủ đề được nhiều người quan tâm đến và tác phẩm “Nữ phóng viên đầu tiên” cũng nói về chủ đề như vậy. Sau khi đọc Soạn bài Nữ phóng viên đầu tiên sách kết nối tri thức của VUIHOC, các em hãy tự suy ngẫm về nội dung và ý nghĩa của tác phẩm này. Ngoài ra, để học thêm nhiều tác phẩm khác thuộc chương trình ngữ văn 11 hoặc nội dung các môn học khác, các em hãy nhanh chóng truy cập vào website vuihoc.vn rồi đăng ký khoá học của VUIHOC để có thể học được nhiều kiến thức hay nhất cùng các thầy cô nhé!

 

Nguồn: 

https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-nu-phong-vien-dau-tien-sach-ket-noi-tri-thuc-2434.html

 

 

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek