Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện)| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức

Không chỉ là một bậc thầy trong việc tả người, Nguyễn Du còn có biệt tài trong việc tả cảnh. Khung cảnh ông miêu tả đã đạt tới sự mẫu mực, cổ điển, nói lên được tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Tình và cảnh trở thành hai yếu tố bổ sung làm ra chất riêng cho sáng tác của Nguyễn Du. Và tình cảnh đó đã được ông kết hợp vô cùng hài hòa nhằm phản ánh lên tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Mỗi một bức tranh của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích gắn liền với một tâm trạng của Thúy Kiều. Bức tranh đầu tiên là khung cảnh thiên nhiên hoang vắng và mênh mông, rợn ngợp:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

    …

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Sau khi bị lừa và giam nhốt vào lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều tự hiểu được hoàn cảnh của bản thân. Là một cô gái trẻ, ấy thế mà nàng lại bị “khóa xuân” ở trong cung cấm, không được giao tiếp với bên ngoài, nàng như bị giam lỏng. Khung cảnh thiên nhiên bao la và hoang vắng: trăng sáng, núi xa, cồn vàng, những bụi cỏ trải dài hết cả tầm mắt. Kiều vừa bị lừa, vừa bị đánh đập và la mắng, định tự tử nhưng không thành, nay lại bị giam ở lầu Ngưng Bích.

Trong khung cảnh đó, tâm trạng của con người làm sao cho hết buồn, hết cô đơn và tủi cực, lòng nàng ngổn ngang trăm bộn bề, tìm ra xa, rồi đi lại gần để mong có được hơi ấm trong cuộc sống, nhưng cuối cùng lại chỉ có thể làm bạn với canh khuya. Nàng đau đớn thắt lòng, chẳng thể nào làm tìm được nguồn vui ở hiện tại nên nàng đành lòng nhớ về quá khứ và nhớ về người thân. Nàng nhớ đến Kim Trọng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

    …

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Nhưng nhớ về Kim Trọng càng khiến nàng đau đớn hơn. Những kỉ niệm trong sáng và đẹp đẽ của mối tình đầu bỗng ùa về, làm thắt lại trái tim vốn nhỏ bé của nàng. Nàng tự trách mình đi không có một lời báo trước để chàng Kim vẫn ngày đêm ngóng trông. Bao giờ nàng mới có thể quên đi được mối tình trong sáng và đẹp đẽ đó. Sau khi nhớ đến Kim Trọng, Thúy Kiều nhớ đến cha mẹ già, tuổi cao sức yếu mà không có người chăm lo: “Xót người tựa cửa hôm mai/ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ/ Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” kết hợp với điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đã cực tả về nỗi nhớ thương cũng như lòng hiếu thảo của Kiều. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói về sức mạnh của bao mùa mưa nắng, vừa nói về sự tàn phá của thiên nhiên đối với cảnh vật và con người. Nguyễn Du đã thành công khi sử dụng được ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm thía vào cảnh vật, thời gian lẫn lòng người. Nàng dường như quên đi cảnh ngộ của chính mình để lo nghĩ cho những người thân yêu.

Bức tranh thiên nhiên thứ hai cũng là tám câu thơ cuối, khi nàng trở về với hiện thực phũ phàng trước mắt mình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

    …

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Khung cảnh về chiều, với cánh buồm bé nhỏ ẩn hiện ở giữa khung cảnh mênh mông sóng nước. Con thuyền càng trở nên lẻ loi và đơn độc hơn. Nó cũng giống như cuộc đời của Kiều, đơn độc ở trên bước đường đời đầy truân chuyên, chẳng biết khi nào mới được đoàn tụ với gia đình.

Rồi đôi mắt nàng hướng đến những ngọn nước mới sa, những nhành hoa mỏng manh bị trôi dạt, rồi tự hỏi không biết chúng sẽ trôi đến đâu. Nhìn những cánh hoa tàn lụi, nàng lại càng thấy buồn hơn vì thấy hình ảnh của chúng mình ở trong đó, lênh đênh và vô định giữa sóng gió cuộc đời. Đây cũng chính là hoàn cảnh rất tội nghiệp, đáng thương của nàng. Số phận của mình cũng không được làm chủ, bị đưa đẩy và vùi dập. Tâm trạng cô đơn và bơ vơ càng được tô đậm hơn nữa.

Nhìn ra một hướng khác cũng chỉ có nội cỏ bủa vây ở bốn phía. Màu xanh tàn tạ và héo úa, nhạt nhòa, đâu còn là màu xanh non tươi tốt, mỡ màng đến tới chân trời của cảnh ngày xuân nữa. Màu xanh ấy gợi lên trong Kiều nỗi buồn vô vọng vì cuộc sống quẩn quanh và bế tắc. Hai câu thơ cuối cùng cả tình và cảnh đã đạt tới độ điêu luyện. Nỗi buồn mỗi lúc một tăng và dồn dập xô tới. Tiếng sóng ầm ầm ấy cũng chính là biết bao nhiêu phong ba bão táp đổ ập xuống cuộc đời của Kiều. Lúc này không còn là lo âu mà đó là sự kinh sợ, dần rơi vào vực thẳm của sự bất lực.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc, kết hợp với vốn ngôn từ phong phú, Nguyễn Du đã xây dựng rất thành công bức tranh chân dung về tâm trạng Thúy Kiều. Tấm lòng nàng ngổn ngang và đầy giông bão, nàng bất lực phải chờ đợi những khó khăn ở phía trước. Những vần thơ cũng cho thấy được tấm lòng cảm thông mà Nguyễn Du dành cho những người phụ nữ với số phận bất hạnh.

Bài tham khảo 3:

Đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" có 22 câu, trích trong "Truyện Kiều" được xem là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình" (Tố Hữu) . Bao biến cố khủng khiếp đã xảy ra: tai bay vạ gió, cha và em đều bị tù tội, gia sản bị bọn sai "đầu trâu mặt ngựa" cướp "sạch sành sanh" ... , phải bán mình đi để chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay của Mã Giám Sinh – Tú Bà. Sau khi "thất thân" bởi Mã Giám Sinh, bị mụ Tú Bà làm nhục thì Kiều tự vẫn nhưng rồi được cứu sống. Tú Bà đã dỗ dành Kiều:

" Người còn thì của hãy còn,

Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà ..."

Kiều được Tú Bà đưa đến lầu Ngưng Bích với lời hứa "con hãy thong dong" , nhưng sự thật là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều ở trên con đường lưu lạc đầy máu cùng với nước mắt, cay đắng và tủi nhục trong suốt 15 năm trời.

Đoạn thơ không chỉ biểu lộ được tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện được một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự và về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để có thể biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

Sáu câu đầu là một không gian nghệ thuật và cũng là tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có "non xa" và "tấm trăng gần"; có cả "cát vàng cồn cọ" và " bụi hồng dặm kia". Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không có lấy một bóng người, Kiều chỉ còn biết " Bốn bề bát ngát xa trông". Một cảm giác rất cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho chính thân phận của mình, duyên số của mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với " mây sớm đèn khuya", nỗi lòng người con gái bị lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán biết bao:

" Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

Bốn chữ "như chia tấm lòng" diễn tả về một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát và đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và có trăng gần- nhưng nàng vẫn luôn cảm thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi vì "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Kiều sao không khỏi sự cô đơn và bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy sự bi kịch:

" Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu"

Tám câu thơ tiếp theo nói về niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương cha mẹ của Thúy Kiều khi phải sống một mình ở trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều " tưởng người ... ". Còn với cha mẹ thì nàng đã "xót người ... ", mỗi đối tượng Kiều lại có một nỗi thương nhớ khác.

Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Trì, Kiều thương Kim Trọng phải chịu cô đơn và đau khổ "Một trời thu để riêng ai một người". Đối với cha mẹ Kiều khắc khoải "Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn." Lần này, Kiều tưởng nhớ đến chàng Kim, nhớ về lời thề dưới trăng đêm tình tự "dưới nguyệt chén đồng", thương người yêu phải đau khổ "rày trông mai chờ" và "bơ vơ" cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới nguôi ngoai, mới "phai" được nỗi thương nhớ đó? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như là: "dưới nguyệt chén đồng", "rày trông mai chờ", "tin sương", "bên trời góc bể", "tấm son gột rửa" ... đã diễn tả và bộc lộ một cách vô cùng sâu sắc, cảm động tình cảm thương nhớ mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà phải chia lìa đau đớn:

" Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai..."

Các động từ - vị ngữ: "tướng", "chờ", "trông", "bơ vơ", "gột rửa", "phai" ... đã liên kết với nhau thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt được nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ thương người yêu khôn nguôi, xót xa cho chính mối tình đã nặng lời thề son sắt nhưng bị tan vỡ!

Nhớ chàng Kim rồi Kiều lại xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: "hôm mai", "cách mấy nắng mưa", những thi liệu, điển cố văn học Trung Hoa như: "sân Lai", "gốc tử" và thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", đặc biệt là hình ảnh mẹ già "tựa cửa hôm mai" đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc ở quê người đã cực tả nỗi nhớ thương của cha mẹ, nỗi đau buồn của người con gái đầu lòng không thể hay thực tế là không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu và khi "gốc tử đã vừa người ôm".

Nguyễn Du đã sử dụng đến ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển với phong cách dân tộc, tạo ra những vần thơ biểu cảm thể hiện được một tâm trạng bi kịch và một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa "trâm gãy gương tan" nàng vẫn muốn dành cho "người tình chung" bao tình thương nhớ "muôn vàn ái ân". Là một đứa con có hiếu, giàu đức hi sinh, khi cha mẹ già yếu không còn được sớm hôm phụng dưỡng, Kiều càng nhớ thương lại càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm thía vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:

" Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm"

Tám câu cuối, đoạn điệp ngữ "buồn trông" được xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát. Hai chữ "buồn trông" chính là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng "tê tái" đau thương; thương mình và cũng thương người thân, thương cho thân phận và duyên số ... . "Buồn trông" vì càng buồn thì lại càng trông, càng trông rồi lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất ở trong " Truyện Kiều". Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng "buồn trông". Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên lẫn diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả thông qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng rất bi thương:

" Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"

Cửa bể mênh mông vào ngày tàn chiều hôm càng làm tăng thêm nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc. "Thuyền ai" lúc ẩn lúc hiện "thấp thoáng cánh buồm xa xa" đầy sự ám ảnh. "Buồn trông" con thuyền ai xa lạ, cánh buồm cứ xa xa "thấp thoáng" , Kiều càng nghĩ tới thân phận bơ vơ của mình ở nơi quê người đất khách.

Rồi nàng lại "buồn trông" về "ngọn nước mới sa", dői theo những cánh hoa đang trôi dạt và tự hỏi "về đâu" tới phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác đó tượng trưng cho số phận chìm nổi ở trên dòng đời không biết về đâu - Kiều nhìn hoa trôi ở trên ngọn nước mà cảm thương cho chính số phận của mình:

" Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?"

Sau hai câu hỏi tu từ về "thuyền ai" và về hoa trôi "biết là về đâu?", Kiều "buồn trông" về bốn phía "chân mây mặt đất" về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy ở trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la chính là màu sắc tàn úa và vàng héo "dầu dầu" của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương đó đã phản chiếu nỗi đau tê tái của một người con gái bị lưu lạc:

" Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh"

"Nội cỏ dầu dầu" tàn úa hiện ra giữa màu "xanh xanh" nhạt nhòa của "chân mây mặt đất" chính là tâm trạng vô cùng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt. Sắc cỏ "dầu dầu" ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào ở trên mộ Đạm Tiên.

" Sè sè nấm đất bên đường,

Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh"

Nhìn xa rồi lại nhìn gần, vừa "buồn trông" lại vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió, gió gào và "gió cuốn" trên mặt duềnh. Nghe tiếng "ầm ầm" của sóng, không phải là sóng reo mà là "sóng kêu". Gió và sóng đang bủa vây "xung quanh ghế ngồi". Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút vô cùng hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa vô cùng khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận của người con gái nhỏ bé đáng thương? Kiều buồn trông mà thật lo âu sợ hãi:

" Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Bức tranh "nước non người", cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm xa xa ở trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa một màu xanh xanh của chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu ở nơi mặt duềnh ... mang ý nghĩa tượng trưng và rất giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc đó, âm thanh đó của thiên nhiên vừa bao la lại vừa mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây lấy người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng và lẻ loi.

Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu lẫn nước mắt có "ma đưa lối, quỷ đem đường" ... đối với Kiều vẫn đang ở phía trước. Đoạn thơ: "Kiều ở lầu Ngưng Bích " như chất chứa đầy lệ. Lệ của người con gái bị lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương và chua xót vì mối tình đầu đã tan vỡ, xót xa vì thương nhớ đến mẹ cha, lo sợ cho thân phận và số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm và xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo nhưng bạc mệnh.

Các từ láy: bát ngát, bơ vơ, bẽ bàng, thấp thoáng, man mác, xa xa, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm ... kết hợp với điệp ngữ "buồn trông" đã tạo ra sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm thêm cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Đó chính là giá trị văn chương đích thực của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".

 

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện) trên đây VUIHOC đã hướng dẫn cho các em vô cùng chi tiết. Những bài viết tham khảo này sẽ giúp các em biết được cách phân tích các tác phẩm truyện văn học hay và đặc biệt nhất.

Ngoài bài soạn này ra, nếu muốn tham khảo thêm về những bài soạn văn khác hay những bài soạn khác có trong môn học khác thì em hãy nhanh tay truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC đó là vuihoc.vn để có thể đăng ký cho mình khoá học một cách nhanh chóng và được giải đáp trực tiếp từ thầy cô giáo có chuyên môn cao và đầy nhiệt huyết của VUIHOC nhé!

 

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-viet-bai-van-nghi-luan-phan-tich-mot-tac-pham-van-hoc-truyen-van-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4153.html

 

 

Tovább

Soạn bài Ngày xưa| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức

Dưới đây là phần soạn bài Ngày xưa| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức. Bài thơ chính là lời khẳng định về sức sống mãnh liệt của tác phẩm Truyện Kiều, được thể hiện thông qua lời hát ru của bà. Qua đó, tác giả muốn nhắn gửi đến người đọc thông điệp về việc bảo tồn và lưu truyền những tác phẩm văn chương đặc biệt cho đời đời sau.

 

Soạn bài Ngày xưa Văn 9 tập 1 kết nối tri thức: Sau khi đọc

1 Câu 1 trang 69 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Bà ru cháu bằng những câu Kiều, mặc dù cho cháu còn nhỏ, chưa thể hiểu hết được, điều đó gợi cho em những suy nghĩ gì?

Trả lời:

- Điều đó đã gợi cho em suy nghĩ về sự xuất hiện của Truyện Kiều ở trong đời sống. Dù người cháu không thể hiểu ý nghĩa trong đó nhưng đó vẫn là những lời ru quen thuộc không thể nào thay thế.

2 Câu 2 trang 69 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Bài thơ cho thấy rằng “Truyện Kiều” đã được tiếp nhận theo những cách như thế nào?

Trả lời:

- Truyện Kiều đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người, được tiếp nhận thông qua những lời ru truyền từ đời này sang đời khác. Nó là một truyền thống không thể nào thay đổi.

3 Câu 3 trang 69 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Bài thơ đã gợi cho em suy nghĩ gì về sức sống của Truyện Kiều ở trong lòng người dân Việt Nam. 

Trả lời:

- Sức sống của Truyện Kiều: Tác phẩm Truyện Kiều đã có thể tồn tại cũng như phát triển bền bỉ trong văn học Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác và truyền cảm hứng cho những người yêu Truyện Kiều sáng tạo ra những hình thức sinh hoạt văn hóa như ngâm Kiều, đố Kiều, vịnh Kiều, dựa vào câu Kiều để có thể sáng tác thơ mới, tranh Kiều trên rất nhiều chất liệu khác nhau. Nhiều câu thơ ở trong tác phẩm đã được vận dụng vào nghệ thuật dân gian và trở nên vô cùng phổ biến, quen thuộc.

=> Trải qua hai thế kỷ với nhiều thăng trầm của lịch sử, Truyện Kiều vẫn có sức sống mãnh liệt ở trong đời sống của người Việt Nam, bởi nó không chỉ là câu chuyện của văn học Việt Nam mà nó còn là tâm tư và bản ngã của người Việt Nam.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức 

4 Câu 4 trang 69 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Em có nhận xét như thế nào về hình thức nghệ thuật của bài thơ (thể thơ, hình ảnh, ngôn từ, cách tổ chức và sắp xếp ý thơ…)?

Trả lời:

* Nghệ thuật:

- Thể thơ: Lục bát.

- Ngôn từ và hình ảnh giản dị, gần gũi.

- Cách tổ chức và sắp xếp giống như một câu chuyện.

 

 

Trên đây là phần Soạn bài Ngày xưa Văn 9 tập 1 kết nối tri thức. Bài soạn đã muốn gửi gắm thông điệp về việc bảo tồn và lưu truyền những kiệt tác cho đời sau. Ngoài bài soạn này ra, nếu muốn tham khảo thêm về những bài soạn văn khác hay những bài soạn khác có trong môn học khác thì em hãy nhanh tay truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC đó là vuihoc.vn để có thể đăng ký cho mình khoá học một cách nhanh chóng và được giải đáp trực tiếp từ thầy cô giáo có chuyên môn cao và đầy nhiệt huyết của VUIHOC nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-ngay-xua-van-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4152.html

 

 

Tovább

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 100| Văn 9 tập 1 Kết nối tri thức

Vui học sẽ hướng dẫn các em cách Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 100| Văn 9 tập 1 Kết nối tri thức. Qua bài soạn này các em sẽ hiểu thêm cách chính xác khi sử dụng các trích dẫn trong tác phẩm văn học.

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 100 Văn 9 tập 1 kết nối tri thức

1. Câu 1 trang 100 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

So sánh hai cách trích dẫn tài liệu trong từng trường hợp dưới đây và cho biết cách nào đúng quy định. Dựa vào đâu em khẳng định như vậy?

Cách 1: Một nền giáo dục phiến diện, có thể sản sinh ra những người nông cạn về tinh thần, những con người một chiều kích.

Cách 2: Một nền giáo dục phiến diện, có thể sản sinh ra những người nông cạn về tinh thần, “những con người một chiều kích” như Hơ-bớt Mác-kiu-dơ (Herbert Marcuse) đã nói.

(Huỳnh Như Phương, Hãy cầm lấy và đọc)

Trong ví dụ a, cách 2 là cách trích dẫn tài liệu đúng vì đã nêu được rő về cả tác giả cũng như xuất xứ của tài liệu tham khảo đó.

Cách 1: Nhưng có một điều chắc chắn, để đi đến đích, em sẽ phải trải qua không ít thử thách, gian nan. Những lúc như vậy, hãy luôn nhớ rằng, “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.” (Nguyễn Bá Học).

(Theo Đoàn Công Lê Huy, Câu chuyện về con đường)

Cách 2: Nhưng có một điều chắc chắn, để đi đến đích, em sẽ phải trải qua không ít thử thách, gian nan. Những lúc như vậy, hãy luôn nhớ rằng, đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.

Trong ví dụ b, cách 1 là cách nêu trích dẫn tài liệu đúng bởi đã ghi rő được xuất xứ và tác giả của đoạn trích dẫn đó.

2. Câu 2 trang 101 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Dấu hiệu nào trong các đoạn trích sau cho thấy người viết tuân thủ quy định khi tham khảo tài liệu và trích dẫn? Từ đó, em rút ra bài học gì trong việc tham khảo và trích dẫn tài liệu?

a. Vũ Nương trở về dương thế, nhưng chỉ hiện ra “ở giữa dòng mà nói vọng vào: – [...] thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Ảo ảnh chập chờn và mau chóng tan biến. Chia li là vĩnh viễn. Người chết chẳng thể nào sống lại: “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất".

(Nguyễn Đăng Na, “Người con gái Nam Xương" - một bi kịch của con người)

Dấu hiệu trong đoạn trích trên cho thấy người viết tuân thủ quy định khi tham khảo tài liệu và trích dẫn: Có đầy đủ cả tác giả lẫn tên của tác phẩm chứa trích dẫn đó.

b. Sau này, tâm hồn thi sĩ, ngòi bút tài hoa của Hoàng Cầm cũng khiến ta chẳng thể nào quên nụ cười của những cô gái miền quê Kinh Bắc:

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng.

(Bên kia sông Đuống)

(Lê Quang Hưng, “Nắng mới” – sự thành thực của một tâm hồn giàu mơ mộng)

Dấu hiệu trong đoạn trích trên cho thấy người viết tuân thủ quy định khi tham khảo tài liệu và trích dẫn: Có tên của tác phẩm chứa trích dẫn đó và tác giả sáng tác ra tác phẩm đó.

c. Từ hơn nửa thế kỷ trước đây, Nguyễn Tuân đã sớm cảm thấy cái sức truyền cảm tuy kín đáo nhưng khó cưỡng lại ấy trong văn chương của Thạch Lam khi viết một câu văn đúng và đẹp lạ lùng: “Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín." (Nguyễn Tuân, “Thạch Lam”, trích lại trong “Thạch Lam, văn và đời”).

(Đỗ Kim Hồi, Thạch Lam – Đôi điều cảm nhận)

Dấu hiệu trong đoạn trích trên cho thấy người viết tuân thủ quy định khi tham khảo tài liệu và trích dẫn: Có đầy đủ cả tên tác giả lẫn tên của tác phẩm chứa hai trích dẫn đó.

Qua ba đoạn ví dụ, ta có thể rút ra bài học đó là khi phân tích những vấn đề cần nghị luận, nếu muốn sử dụng tài liệu tham khảo ta cần sử dụng đúng cách và ghi rő đầy đủ thông tin cần thiết. Đây là cách tôn trọng tác giả của tài liệu cũng như chắc chắn rằng nó không biết thành lời văn của mình.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức 

3. Câu 3 trang 101 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Trong tạo lập văn bản, việc không dẫn nguồn tài liệu khi dùng lời hoặc ý của người khác và việc trích dẫn theo cách gián tiếp khác nhau như thế nào?

Việc không dẫn nguồn tài liệu khi dùng lời hoặc ý của người khác và việc trích dẫn theo cách gián tiếp trong tạo lập văn bản sẽ khiến ra tình trạng đạo văn, vi phạm về bản quyền tác giả khi vô tình biến tài liệu đó thành giọng văn của mình.

Việc trích dẫn tài liệu một cách gián tiếp là cách biến tài liệu trích dẫn đó trở thành lời văn của chính mình hay là dùng cách hiểu của mình để thể hiện lại tài liệu đó nhưng vẫn phải đảm bảo có đầy đủ thông tin của tài liệu.

 

 

Qua bài viết trên, Vuihoc đã mang đến cho các em Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 100| Văn 9 tập 1 Kết nối tri thức. Hy vọng qua bài viết này các em sẽ có thêm những gợi ý và hướng dẫn trọng điểm trong việc hiểu thêm về các cách sử dụng các tài liệu tham khảo vừa hữu dụng vừa chính xác. Để bổ sung thêm nhiều kiến thức bổ ích với các chủ đề cũng như nội dung khác nhau, các em hãy thường xuyên theo dői các bài viết mới nhất của Vuihoc nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-tieng-viet-trang-100-van-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4151.html

 

Tovább

Từ Thằng quỷ nhỏ của Nguyễn Nhật Ánh nghĩ về những phẩm chất của một tác phẩm viết cho thiếu nhi

Cùng theo dői phần soạn bài Từ “Thằng quỷ nhỏ” của Nguyễn Nhật Ánh nghĩ về những phẩm chất của một tác phẩm viết cho thiếu nhi để tìm hiểu về những suy nghĩ và quan điểm của tác giả về những phẩm chất cần có của một người viết truyện cho thiếu nhi thông qua việc phân tích tác phẩm Thằng quỷ nhỏ của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.

1. Soạn bài Soạn bài Từ Thằng quỷ nhỏ của Nguyễn Nhật Ánh nghĩ về những phẩm chất của một tác phẩm viết cho thiếu nhi: Trước khi đọc

Em đã đọc tác phẩm văn học nào viết về chủ đề những con người có ngoại hình khác lạ? Chia sẻ ngắn gọn những cảm nhận của em về tác phẩm ấy.

Trả lời

- Em đã từng đọc được câu chuyện Sọ Dừa. Nhân vật chính là Sọ Dừa với ngoại hình rất khác lạ người tròn hệt như một trái dừa không có chân và cũng không có tay, chú bé chỉ lăn qua lăn lại khắp nhà.

- Điều em thấy ấn tượng nhất chính là tuy có ngoại hình khác thường nhưng chú bé lại rất thông minh, hiền lành và chăm chỉ, biết giúp đỡ cha mẹ

2. Soạn bài Soạn bài Từ Thằng quỷ nhỏ của Nguyễn Nhật Ánh nghĩ về những phẩm chất của một tác phẩm viết cho thiếu nhi: Đọc văn bản

2.1 Cách giải thích của tác giả bài nghị luận về nhan đề của tác phẩm văn học được bàn luận.

Trả lời:

- Tác giả đã giải thích về nhan đề của tác phẩm văn học được bàn luận bằng cách giải thích về ý nghĩa sâu xa của chữ “quỷ”: Chữ “quỷ” mà Nguyễn Nhật Ánh dùng ở đây để chỉ ra sự kì dị trong nhân dạng.

2.2 Những lí lẽ và bằng chứng được tác giả sử dụng để phân tích thái độ của các nhân vật trong truyện đối với Quỳnh.

Trả lời:

- Lí lẽ: Trong mắt của mọi người, Quỳnh chỉ là một thằng hề, để tiêu khiển và để mua vui cho đám đông vốn hồn nhiên, vô tâm.

=> Bằng chứng: Họ lấy anh ra làm trò tiêu khiển. Anh giúp họ giải buồn hay thỏa mãn tính hiếu kỳ hay lấp đầy những phút giây nhàn rỗi.

- Lí lẽ: Ngay cả với Hạnh, cô lớp trưởng vẫn luôn đúng mực, người luôn đứng ra để trấn áp những kẻ bày trò tai quái với Quỳnh thì giữa họ vẫn có một khoảng cách khá mênh mông.

=> Bằng chứng: Bàn có hai người, nhưng mỗi người lại ngồi tít một đầu, chừa một khoảng trống ở giữa.

- Lí lẽ: Với Quỳnh, Nga sợ.

=> Bằng chứng: Và khi, một cách rất tình cờ, biết được tình cảm đặc biệt mà Quỳnh dành cho mình thì Nga đã vô cùng hoảng sợ: “Cứ hình dung đến cảnh phải đi chơi bên cạnh một con người có cãi mũi to tướng và hai vành tai cũng to tướng không kém, lại không ngừng ve vẩy, Nga bất giác rùng mình”.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức 

2.3 Quan điểm của tác giả về nhân dạng của con người.

Trả lời:

- Nhân dạng hóa ra không phải là vẻ bề ngoài, một thứ “nước sơn” như lời khẳng định trong một câu tục ngữ. Nhân dạng cũng được nhào nặn và xét đoán dựa trên các chuẩn mực giá trị. Nhân dạng là của riêng một cá nhân nhưng nó lại được định giá thông qua cộng đồng. Nó không phải chỉ là những cơ quan thực hiện được các chức năng sinh học mà còn được nhào trộn và định giá dựa trên chuẩn mực và quy tắc thẩm mĩ của một cộng đồng.

- Không chỉ nhân tính mà ngay cả nhân hình cũng sẽ đều được phân loại, điều chỉnh bởi những quy chuẩn và đều là những tạo tác mang tính chất văn hóa.

2.4 Lí giải của tác giả về cách ứng xử cũng như phản ứng của chúng ta trước một chân dung khác lạ.

Trả lời:

- Lí giải của tác giả: Trong bất kỳ xã hội nào, luôn luôn tồn tại những quy chuẩn. Những quy chuẩn này trong khi thiết lập những giới hạn được xem là hợp thức bao giờ cũng sẽ hàm ẩn trong nó sự bãi trừ và gạt bỏ những gì đi chệch ra ngoài giới hạn được định đoạt ra.

2.5 Quan điểm của tác giả về phẩm chất của một tác phẩm văn học thiếu nhi.

Trả lời:

- Không nên đối xử với những ngoại lệ hay những bất thường như những gì sai lạc, như những sự tồn tại thứ cấp mà có lẽ cần phải hình dung về những tồn tại khác.

- Không nên biến những nhân vật ở trong những tác phẩm văn học thiếu nhi trở thành các nhân vật hoàn hảo.

- Phải viết cho trẻ em từ cái nhìn của một người lớn với tâm hồn sâu sắc và từng trải.

2.6 Quan điểm của tác giả về nhân vật ở trong tác phẩm văn học thiếu nhi.

Trả lời:

- Những nhân vật ở trong tác phẩm văn học thiếu nhi không nên là một mẫu nhân vật hoàn hảo. Các nhân vật nên mang theo một phần hiện thực, điều đó mới giúp cho người đọc tự điều chỉnh được cách ứng xử của mình với những điều được xem là “lệch chuẩn”.

2.7 Vì sao tác giả bài nghị luận lại cho rằng, cần phải viết cho trẻ em từ cái nhìn của một người lớn với tâm hồn sâu sắc và từng trải.

Trả lời:

- Tác giả cho rằng cần phải viết cho trẻ em từ cái nhìn của một người lớn với tâm hồn sâu sắc vì: người lớn đã trải qua một quãng thời gian thơ ấu, trải nghiệm rất nhiều biến cố, họ sẽ có sự nhìn nhận sâu sắc hơn về cuộc đời, tình người cùng với giá trị của con người. Từ góc nhìn của người lớn, tác giả có thể lụm nhặt được cả những điều đẹp đẽ lẫn xấu xí, giúp cho trẻ em có cái nhìn đa chiều hơn về con người.

3. Soạn bài Soạn bài Từ Thằng quỷ nhỏ của Nguyễn Nhật Ánh nghĩ về những phẩm chất của một tác phẩm viết cho thiếu nhi: Sau khi đọc

3.1 Câu 1 trang 99 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Văn bản bàn luận về vấn đề nào? Theo em, phạm vi của vấn đề bàn luận ở trong văn bản này có điểm gì khác với văn bản “Người con gái Nam Xương” – một bi kịch của con người.

Trả lời:

- Văn bản bàn luận về vấn đề: Thông điệp sâu sắc kèm theo những gợi mở đầy suy nghĩ về phẩm chất của một tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi thông qua văn bản Thằng quỷ nhỏ.

- Phạm vi của bài viết này rộng hơn so với “Người con gái Nam Xương – bi kịch của một kiếp người.” Ở tác phẩm của Nguyễn Đăng Na chỉ tập trung vào số phận người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương. Còn với Trần Văn Toàn, ông đã viết ra những suy nghĩ đáng quý và những bài học khác nhau khi viết về một tác phẩm thiếu nhi thông qua đọc Thằng quỷ nhỏ của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.

3.2 Câu 2 trang 99 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Xác định những luận điểm chính trong văn bản. Các luận điểm đó có quan hệ với nhau như thế nào?

Trả lời:

- Luận điểm chính:

+ Những suy ngẫm của tác giả thông qua nhân vật Quỳnh cùng với những câu chuyện xoay quanh Quỳnh.

+ Câu chuyện con người và xã hội hiện hành khi được đúc kết ở trong câu chuyện của Quỳnh.

+ Một số thảo luận về phẩm chất của những tác phẩm cần có trong một tác phẩm thiếu nhi

- Mối quan hệ: Tác giả đi từ câu chuyện để từ đó mà đưa ra vấn đề cần bàn luận là những phẩm chất cần phải có của một tác phẩm dành cho thiếu nhi.

3.3 Câu 3 trang 99 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Đọc phần (1) và cho biết tác giả bài nghị luận đã sử dụng những lí lẽ và bằng chứng nào để phân tích nhân dạng của nhân vật Quỳnh và thái độ của những nhân vật khác đối với nhân dạng đó. Em có nhận xét gì về những lí lẽ bằng chứng đã được tác giả sử dụng?

Trả lời:

- Lí lẽ và bằng chứng:

+ Chữ “quỷ” mà Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng chính là sự kì dị ở trong nhân dạng.

+ Quỳnh là người mang biệt danh thằng quỷ nhỏ - được miêu tả với những đặc điểm như sau: hai vành tai to…thêm vào đó là chiếc mũi to, đỏ ửng, lấm tấm mồ hôi.

+ Nhân dạng khá lạ lẫm với chúng bạn khiến cho cậu bé ấy phải chịu thân phận của một kẻ lạc loài.

+ Chẳng những vậy, sự lạc loài khiến cho mọi tình cảm của một con người bình thường nếu xuất hiện ở nhân vật Quỳnh thì trong mắt bạn bè đều là một thứ gì đó khác thường.

- Những lí lẽ bằng chứng của tác giả sử dụng khá thuyết phục và hợp lí. Sau khi đưa ra những lí lẽ, tác giả đều đưa thêm bằng chứng đi kèm khiến cho những lí lẽ bằng chứng thêm phần chặt chẽ và liên kết. 

3.4 Câu 4 trang 99 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Đọc phần (2) và cho biết tác giả đã có quan điểm như thế nào về nhân dạng của con người. Em hãy dẫn ra một số lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu ở trong văn bản giúp làm sáng tỏ quan điểm của tác giả.

Trả lời:

- Tác giả có quan niệm rằng: Nhân dạng hóa ra không phải là vẻ bề ngoài, nhân dạng cũng được nhào nặn và xét đoán dựa trên các chuẩn mực giá trị.

+ Nhân dạng của riêng cá nhân nhưng lại được định giá thông qua cộng đồng.

+ Trong trường hợp của chú bé Quỳnh, thì sự bất bình thường ở trong nhân dạng đã mặc nhiên ấn định cho sinh thể bé nhỏ đó vị thế của một kẻ lạc loài ở trong mắt đồng loại.

+ Một mặt bạn bè dành cho Quỳnh một cách ứng xử đầy khoảng cách và trịch thượng nhưng mặt khác bản thân Quỳnh lại thấy ứng xử đó của cộng đồng là tự nhiên và chú chấp nhận nó.

3.5 Câu 5 trang 100 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Trong phần (2) tác giả đã lí giải như thế nào về cách ứng xử của chúng ta đối với một nhân dạng đặc biệt? Việc liên tưởng tới truyện cổ tích trong đoạn cuối của phần này có tác dụng như thế nào?

Trả lời:

- Tác giả đã lý giải rằng: Vì nó hoạt động theo cách bị loại trừ với những gì còn lại, những gì thuộc về số ít, những gì lệch chuẩn hay những gì dị thường.

- Việc liên tưởng có tác dụng giúp minh chứng cho việc quy chuẩn về sự thống nhất giữa nhân hình với nhân tính.

3.6 Câu 6 trang 100 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Trong phần (3) theo tác giả một tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi cần có những phẩm chất như thế nào? Những câu văn nào giúp em nhận ra được điều đó?

Trả lời:

- Cần có những phẩm chất:

+ Không nên đối xử với những ngoại lệ hay những bất thường như những sai lạc mà có lẽ cần phải hình dung về chúng như những tồn tại khác.

+ Không nên biến những nhân vật ở trong văn học thiếu nhi thành những nhân vật hoàn hảo.

+ Viết cho trẻ em từ góc nhìn của một người lớn sâu sắc và đã từng trải.

3.7 Câu 7 trang 100 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Trong đoạn cuối của bài nghị luận, tác giả đã cho rằng: “phải viết cho trẻ em từ cái nhìn của một người lớn sâu sắc và từng trải”. Em có suy nghĩ như thế nào về quan niệm này?

Trả lời:

Quan niệm này vô cùng đúng đắn. Qua lăng kính của một người lớn đã đi qua biết bao nhiêu khó khăn, tuổi thơ sẽ được phát hiện lại được chiếu sáng như thế mới tạo nên được một tác phẩm thiếu nhi sâu sắc.

3.8 Câu 8 trang 100 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Nhận xét về nghệ thuật viết văn nghị luận của tác giả thể hiện ở trong văn bản (Cách đặt vấn đề, cách sử dụng lí lẽ và bằng chứng, tổ chức luận điểm, ngôn ngữ...)

Trả lời:

- Nghệ thuật:

+ Tác giả đã đặt vấn đề một cách trực tiếp dựa vào suy nghĩ của bản thân.

+ Tổ chức luận điểm: Những luận điểm được tổ chức sắp xếp một cách rất chặt chẽ và theo một trình tự.

+ Cách sử dụng lí lẽ và bằng chứng: Các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục, được trình bày ngay phía sau luận điểm.

4. Kết nối đọc viết trang 100 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức 

Viết một đoạn văn (dài khoảng 7 – 9 câu) chia sẻ những suy nghĩ của em về ý kiến “Không nên biến những nhân vật trong các tác phẩm văn học thiếu nhi trở thành những nhân vật hoàn hảo”.

Trả lời:

“Không nên biến những nhân vật trong các tác phẩm văn học thiếu nhi trở thành những nhân vật hoàn hảo”. Thực ra cảm hứng về cái hoàn hảo ấy chính là một hạn chế phổ biến ở trong văn học Việt Nam nói chung. Chính bởi cảm hứng xây dựng nên những nhân vật hoàn hảo mà các nhà văn Việt Nam, trong nhiều trường hợp, khi viết cho người lớn sẽ thường gây cho người ta cảm giác rằng họ là những đứa trẻ ngây thơ. Còn khi viết cho trẻ em thì lại thường gây cho người ta ấn tượng rằng họ là những người lớn đạo mạo và nông nổi. Rốt lại, dù viết cho bất cứ ai, họ cũng không khiến cho người đọc (trẻ em hoặc người lớn) bắt gặp được mình ở trên trang sách.

 

Thông qua phần Soạn bài Từ Thằng quỷ nhỏ của Nguyễn Nhật Ánh nghĩ về những phẩm chất của một tác phẩm viết cho thiếu nhi, chắc hẳn các em đã nắm được những phẩm chất mà người viết truyện thiếu nhi cần có. Ngoài bài soạn này ra, nếu muốn tham khảo thêm về những bài soạn văn khác hay những bài soạn khác có trong môn học khác thì em hãy nhanh tay truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC đó là vuihoc.vn để có thể đăng ký cho mình khoá học một cách nhanh chóng và được giải đáp trực tiếp từ thầy cô giáo có chuyên môn cao và đầy nhiệt huyết của VUIHOC nhé!

 

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/soan-bai-tu-thang-quy-nho-cua-nguyen-nhat-anh-nghi-ve-nhung-pham-chat-cua-mot-tac-pham-viet-cho-thieu-nhi-4150.html

 

Tovább

Soạn bài Người con gái Nam Xương - một bi kịch của con người| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức

Bài viết dưới đây chính là Soạn bài Người con gái Nam Xương - một bi kịch của con người| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức mà Vuihoc gửi đến các em. Hy vọng qua bài soạn này các em sẽ hiểu thêm về tấn bi kịch của Vũ Nương cũng như số phận của phụ nữ trong xã hội phong kiến.

1. Soạn bài Người con gái Nam Xương - một bi kịch của con người: Trước khi đọc 

1.1 Câu 1: Kể tên một vài tác phẩm văn học Việt Nam viết về số phận bi kịch của con người.

- Một vài tác phẩm văn học Việt Nam viết về số phận bi kịch của con người có thể kể đến: Vợ nhặt của tác giả Kim Lân, Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, Tự tình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương,...

1.2 Câu 2: Trong bài 1, em đã được học tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Hãy chia sẻ cảm nhận về một chi tiết mà em ấn tượng nhất trong tác phẩm.

- Chi tiết mà em cảm thấy ấn tượng nhất trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương chính là chi tiết chiếc bóng.

- Chi tiết này chính là nút thắt trong tác phẩm, là chi tiết hình thành nên tấn bi kịch của Vũ Nương.

2. Soạn bài Người con gái Nam Xương - một bi kịch của con người: Đọc văn bản 

2.1 Cách đặt vấn đề của tác giả.

- Tác giả đã đặt vấn đề bằng cách giới thiệu qua về tác phẩm, về nhân vật chính Vũ Nương và đưa ra lời nhận xét của bản thân về số phận con người qua chính tác phẩm Người con gái Nam Xương.

- Đây chính là cách đặt vấn đề một cách gián tiếp để thể hiện suy nghĩ và tình cảm của bản thân mình qua một tác phẩm, một câu chuyện hoặc qua cuộc đời của người khác.

2.2 Nhận xét của tác giả về cuộc đời Vũ Nương.

- Cuộc đời của Vũ Nương được tác giả nhận xét là một đời ngắn ngủi của con người. Tuy vậy nhưng cô đã có thể hoàn thành được trách nhiệm mà một người phụ nữ phải gánh vác đó là làm con, làm con dâu, làm vợ và làm mẹ.

- Nhưng dù cô đã làm rất tốt mọi nghĩa vụ của mình nhưng vào ngày đáng lẽ cô sẽ là người hạnh phúc nhất khi chồng của cô đã trở về, cha của con trai cô đã quay lại thì cuộc đời nghiệt ngã đã khiến cô phải chịu mọi oan khuất, phải lìa xa gia đình của mình.

2.3 Nét tính cách của nhân vật Trương Sinh được tác giả tập trung phân tích.

- Tác giả đã tập trung phân tích tính ghen tuông mất kiểm soát cũng như sự đa nghi vô căn cứ của Trương Sinh.

2.4 Lí lẽ và bằng chứng được tác giả sử dụng để bày tỏ suy nghĩ về nhân vật Trương Sinh.

- Lý lẽ và bằng chứng đã được tác giả sử dụng để bày tỏ suy nghĩ về nhân vật Trương Sinh là:

  • Lý lẽ 1: Trong ba năm chiến đấu ngoài chiến trường đã khiến anh mệt mỏi, có cảm giác chán chường. Vậy mà khi về đến nhà, anh lại thấy được cảnh tượng đau lòng.

  • Bằng chứng 1: Lúc anh về thì mẹ mấy khiến cho anh rất đau khổ.

  • Lý lẽ 2: Là người cùng một làng, biết nhau từ rất lâu nên anh thừa hiểu được phẩm chất của vợ mình.

  • Bằng chứng 2: Chính vì yêu thích tính cách cũng như phẩm chất của Vũ Nương mà Trương Sinh đã xin mẹ mang trăm lạng vàng đến nhà để đem nàng về làm vợ.

  • Lý lẽ 3: Cơn ghen tuông của Trương Sinh đã bùng nổ.

  • Bằng chứng 3: Do câu nói vô tình của bé Đản nói về người đàn ông đêm nào cũng đến với vợ mình.

  • Lý lẽ 4: Do tính đa nghi của mình nên chàng đã không còn đủ tỉnh táo để phân tích lời con trẻ nói.

  • Bằng chứng 4: Cơn giận tăng lên khiến chàng không nghe cả những lời van xin giải thích của vợ mình.

  • Lý lẽ 5: Sự ghen tuông của một người nông dân nóng tính vốn không được học hành đầy đủ đã nóng lên rồi biến thành cơn day dứt không thể biến mất.

  • Bằng chứng 5: Không quan tâm đến lời nói và thái độ của mình, Trương Sinh la hét ầm lên cho hả cơn giận và rồi mắng nhiếc đuổi vợ mình ra khỏi nhà.

2.5 Cách tác giả phân tích chi tiết chiếc bóng trên vách - chi tiết mang tính thắt nút - mở nút.

- Tác giả đã phân tích chi tiết mang tính thắt nút mở nút của câu chuyện chính là chi tiết chiếc bóng:

  • Nhà văn Nguyễn Dữ khéo léo ví hình ảnh chiếc bóng như tình cảm khăng khít của đôi vợ chồng vừa dùng nó để tô đậm sự ân hận của Trương Sinh khi vợ mình lựa chọn cái chết để chứng tội. Cái bóng còn là minh chứng cho lỗi lầm của cả vợ và chồng.

  • Chi tiết chiếc bóng trên vách này còn đặc biệt đến mức không thể tìm thấy chi tiết tương tự trong các tác phẩm truyện truyền kỳ kể cả ở trong kho tàng văn học Việt Nam hay Trung Quốc.

2.6 Vì sao tác giả cho rằng “bi kịch của Vũ Thị Thiết một phần là do nàng?”

  • Tác giả cho rằng “bi kịch của Vũ Thị Thiết một phần là do nàng?” bởi vì:

  • Cô vốn là người hiểu rő tính cách đa nghi, ghen tuông của chồng mình nhất nhưng lại tạo ra sai lầm khó giải thích.

=> Do quá thương con, muốn con cảm nhận được tình cha mà cô lại lựa chọn nói dối con. Chính việc không giải thích này cùng với việc đứa trẻ tuổi còn quá nhỏ để có thể suy nghĩ trước khi nói đã tạo ra tấn bi kịch của cuộc đời cô. Sau này khi con cô trưởng thành, nếu nó biết nguyên nhân gây ra cái chết của mẹ mình sẽ khiến nó ân hận và đau khổ khôn cùng.
>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức 

2.7 Nhận định của người viết về nét độc đáo của truyện truyền kì Nguyễn Dữ.

- Tác giả Nguyễn Dữ đã sử dụng tài hoa của mình để tạo nên nét độc đáo mà không tác giả nào có thể làm ra trong tác phẩm truyện truyền kỳ.

- Nguyễn Dữ đã có thể dung hòa được cả hiện thực nghiệt ngã cùng với ước mơ và khát vọng sống, giữa cả cái ảo ảnh cùng với điều trong thực tế.

- Ông đã sử dụng sự thần kỳ khi đưa Vũ Nương trở lại nhân gian để minh oan cho chính bản thân mình nhưng nó cũng chỉ tồn tại trong giây lát và rồi biến mất đi mãi mãi.

- Tạo ra khát vọng cho Trương Sinh, để anh ta có cơ hội nhận lỗi với vợ mình nhưng cũng chính tác giả là người đưa anh ta trở lại với hiện thực nghiệt ngã không thể thay đổi.

2.8 Cách tác giả kết thúc vấn đề.

Tác giả đã lựa chọn kết thúc vấn đề bằng cách nêu lên những đặc điểm nổi bật của nhân vật chính Vũ Nương cũng như số mệnh của những người phụ nữ trong thời phong kiến. Qua đó khẳng định một lần nữa sức hấp dẫn cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm.

3. Soạn bài Người con gái Nam Xương - một bi kịch của con người: Sau khi đọc 

3.1 Câu 1 trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Xác định vấn đề được bàn luận và bố cục của bài nghị luận.

- Vấn đề được nghị luận trong toàn tác phẩm là tấn bi kịch của cuộc đời Vũ Nương.

- Có thể chia tác phẩm thành bố cục 5 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “Miếu vợ chàng Trương” - Giới thiệu về nội dung của tác phẩm.

  • Phần 2: Tiếp theo đến “hàm hồ và mù quáng” - Nhận xét về cuộc đời của Vũ Nương qua lời tác giả.

  • Phần 3: Tiếp theo đến “muốn nói với người đời” - Những nhận xét về tính cách của Trương Sinh cũng như lý do chủ quan dẫn đến bi kịch của Vũ Nương.

  • Phần 4: Tiếp theo đến “bi kịch gia đình” - Những độc đáo trong nghệ thuật sáng tác truyện truyền kỳ của tác giả Nguyễn Dữ.

  • Phần 5: Phần còn lại - cách tác giả kết thúc vấn đề của tác phẩm.

3.2 Câu 2 trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Từ luận đề, tác giả đã triển khai các luận điểm theo trình tự nào?

- Từ luận đề, tác giả đã triển khai các luận điểm theo trình tự từ cụ thể chi tiết đến bao quát, từ nguyên nhân dẫn đến bi kịch dẫn đến hậu quả của nó.

- Trình tự của các luận điểm lần lượt: (1)Nêu lên những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị Thiết - (2)tập trung phân tích tính ghen tuông, đa nghi của Trương Sinh - (3)Nguyên nhân dẫn đến bi kịch và nói lên hậu quả của chúng - (4)Phân tích chi tiết quay trở lại của Vụ Nương càng nổi bật lên tấn bi kịch của gia đình - (5)Ý nghĩa của tác phẩm mà tác giả muốn truyền tải.

3.3 Câu 3 trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Đọc phần (2) và cho biết, theo tác giả, bi kịch của nhân vật Vũ Nương là gì. Tác giả đã làm sáng tỏ bi kịch ấy qua những lí lẽ và bằng chứng nào?

- Bi kịch lớn nhất của Vũ Nương chính là dù cô đã hết lòng yêu thương lo lắng cho hai người thân nhất trong gia đình nhưng chính họ lại là người gây ra nỗi oan trái khiến cô phải lựa chọn cái chết.

- Tác giả đã làm sáng tỏ bi kịch đó qua:

  • Lý lẽ: Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã kịp làm trọn nghĩa vụ của một kiếp đàn bà: làm con, làm dâu, làm vợ, làm mẹ.

  • Bằng chứng: Trong thời gian ba năm chồng đi chiến đấu cô đã hết lòng lo cho mẹ già, vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc đứa con trai bé bỏng.

  • Lý lẽ: Hai người thân thương nhất, gần gũi nhất lại là kẻ gây ra oan trái cho đời nàng.

  • Bằng chứng: Do đứa trẻ ngây thơ cùng lời trẻ con vô tình và người chồng ghen tuông mù quáng không chịu nghe vợ nói lời giải thích.

3.4 Câu 4 trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Đọc phần (3) và cho biết, theo tác giả, điều gì đã khiến Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử. Em có suy nghĩ gì về cách lý giải của tác giả?

- Theo tác giả, nguyên nhân khiến cho Vũ Nương lựa chọn nhảy xuống sông tự tử chính là do cô muốn chứng minh sự trắng của mình với chồng, với xã hội.

- Cách lý giải này của tác giả rất hợp lý do ông đã dựa vào từng chi tiết trong truyện cũng như dựa vào tính cách của cả hai nhân vật chính để lựa chọn cách kết thúc đau thương này.

3.5 Câu 5 trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Những nét đặc sắc nào trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ được làm rő ở phần (4)?

- Những nét đặc sắc trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ được làm rő ở phần (4):

  • Sự dung hòa của hiện thực với ước mơ, giữa điều tồn tại trong thực tế với những ảo ảnh.

  • Chủ nghĩa hiện thực được dung hòa một cách trọn vẹn với chủ nghĩa hiện thực.

3.6 Câu 6 trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Đọc phần (3) và phần (5), cho biết tác giả đã làm nổi bật nét độc đáo trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ bằng cách nào. Những câu văn nào giúp em hiểu rő về nét độc đáo đó?

- Tác giả đã làm nổi bật lên nét độc đáo trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ bằng cách phân tích chi tiết những hình tượng và chi tiết mang tính biểu tượng.

- Những câu văn giúp em hiểu rő về nét độc đáo đó là:

  • “Lấy hình tượng cái bóng người và lời nói ngây thơ của đứa con để đẩy câu chuyện tới đỉnh điểm là nét độc đáo riêng của Nguyễn Dữ, không thể tìm thấy trong bất cứ truyện truyền kì nào của Việt Nam cũng như các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc…”

  • “Vũ Nương không phải là hình tượng một trang liệt nữ, nàng chỉ là một người đàn bà bình thường như bao người vợ, người mẹ trong đời thực.”

3.7 Câu 7 trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Phần (5) có vai trò gì trong bài nghị luận? Câu văn nào giúp em xác định được vai trò ấy?

- Phần (5) có vai trò nhấn mạnh bi kịch của số phận con người trong tác phẩm “Người con gái Nam Xương” và giúp khẳng định lại ý nghĩa và điểm nổi bật khiến tác phẩm khác với các truyện truyền kỳ khác.

- Câu văn giúp em xác định được vai trò ấy là:

  • “Có thể nói, với Người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã vượt khỏi những công thức thông lệ về hình tượng người phụ nữ trong truyện truyền kì.”

  • “Phản ánh số phận Vũ Thị Thiết, Nguyễn Dữ đã đề cập tới cái bi kịch muôn thuở của con người.”

  • “Có lẽ vì vậy mà Người con gái Nam Xương vẫn có sức hấp dẫn đối với người đọc ngày nay.”

3.8 Câu 8 trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Một số chi tiết và nhân vật trong tác phẩm Người con gái Nam Xương không được tác giả bài nghị luận phân tích, chẳng hạn như chi tiết người mẹ dặn dò trước khi Trương Sinh ra trận, các nhân vật Linh Phi, Phan Lang… Từ đó, em có suy nghĩ gì về việc sử dụng lí lẽ và bằng chứng trong văn bản nghị luận văn học?

- Những suy nghĩ của em về việc sử dụng lí lẽ và bằng chứng trong văn bản nghị luận văn học là:

  • Lý lẽ và dẫn chứng có tác dụng giúp cho luận đề được rő ràng nhất, cần phải sử dụng những lý lẽ và dẫn chứng có liên quan mật thiết đến luận đề.

  • Lý lẽ phù hợp có thể nói lên được một phía cạnh nào đó của luận đề.

  • Không nên liệt kê các bằng chứng dài dòng như kể chuyện mà cần phân tích theo suy nghĩ của mình.

4. Kết nối đọc viết trang 93 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức

Em có đồng tình với những phân tích của tác giả bài viết "Người con gái Nam Xương" - một bi kịch của con người về chi tiết chiếc bóng trên vách không? Viết đoạn văn (khoảng 7 - 9 câu) để trả lời câu hỏi trên.

Chi tiết hình ảnh chiếc bóng trên vách tường trong Truyện "Người con gái Nam Xương" của tác giả Nguyễn Dữ là một chi tiết độc đáo và có ý nghĩa rất quan trọng trong mạch truyện. Hình ảnh chiếc bóng của Vũ Nương phản chiếu trên tường chơi đùa cùng con trai là một yếu tố quan trọng vừa là nút thắt cho câu truyện cũng là chi tiết hóa giải mọi vấn đề. Có thể thấy rő hình ảnh cái bóng là hiện thân của tình yêu thương tình mẹ con và đạo đức làm vợ. Cái bóng cũng là nguyên nhân dẫn tới bi kịch của Vũ Nương và gia đình nhỏ của cô. Cái bóng đã khiến Trường Sinh ghen tuông nghi ngờ vợ nhưng cũng chính nó đã thức tỉnh ảnh và giúp anh nhận ra nỗi oan của vợ mình. Qua hình ảnh chiếc bóng, tác giả đã truyền tải được những triết lý sâu sắc, đầy tính nhân văn. Cuộc sống luôn đầy rẫy những sự bất công mà con người không thể đoán trước hay kiểm soát được. Có thể nói tác phẩm "Người con gái Nam Xương" chính một bi kịch của con người từ chi tiết cái bóng trên vách tường.

 

Qua bài viết trên, Vuihoc đã mang đến cho các em Soạn bài Người con gái Nam Xương - một bi kịch của con người Văn 9 tập 1 kết nối tri thức. Hy vọng qua bài viết này các em sẽ có thêm những gợi ý và hướng dẫn trọng điểm cho tác phẩm, giúp các em hiểu tác phẩm một cách chi tiết hơn. Để bổ sung thêm nhiều kiến thức bổ ích với các chủ đề cũng như nội dung khác nhau, các em hãy thường xuyên theo dői các bài viết mới nhất của Vuihoc nhé.

 

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-nguoi-con-gai-nam-xuong-mot-bi-kich-cua-con-nguoi-van-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4148.html

 

 

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek