Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

Soạn bài Cảnh ngày xuân| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Bài viết dưới đây chính là Soạn bài Cảnh ngày xuân| Văn 9 tập 1 Cánh diều mà Vuihoc gửi đến các em. Hy vọng qua bài soạn này các em sẽ hiểu thêm về đại thi hào Nguyễn Du cùng với đoạn trích nổi tiếng “Cảnh ngày xuân” từ tác phẩm văn học có giá trị xuyên không gian, vượt thời gian là Truyện Kiều.

1. Soạn bài Cảnh ngày xuân: Chuẩn bị 

a) Tìm hiểu về đại thi hào Nguyễn Du

  • Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766 mất ngày 3 tháng 1 năm 1766. Theo một số tài liệu, ông sinh ra tại làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh với tên chữ là Tố Như còn hiệu là Thanh Hiên.

  • Ông là người sống gần dân cùng vốn am hiểu sâu sắc với văn hóa của dân tộc. Cuộc đời và những tác phẩm của ông cũng mang đậm ảnh hưởng của thời đại.

  • Do có học vấn uyên bác cùng với kiến thức vững vàng về các loại thơ cổ nên tác phẩm của ông trải dài từ chữ Hán sang chữ Nôm, từ thể loại thơ ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, đến ca, hành,... 

  • Các tác phẩm của ông luôn có nhạc tính, có âm thanh và bừng lên màu sắc tươi đẹp của sự sống. Các tác phẩm của ông rất tinh tế và khéo léo khi nổi bật cả nghệ thuật tả cảnh lẫn bút pháp diễn tả tâm trạng của nhân vật.

b)  Đoạn trích Cảnh ngày xuân

Đoạn trích thuộc phần “Gặp gỡ và đính ước”. Cả đoạn trích đều nói về chủ chính là vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên mùa xuân vừa trong sáng vừa tràn đầy sức sống. Các nhân vật chính có trong đoạn trích là hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. Nội dung của đoạn trích là bức tranh thiên nhiên mùa xuân với lễ Tảo mộ và hội Đạp Thanh.

Tác phẩm sử dụng bút phát miêu tả với chất tạo hình cao. Chỉ qua vài nét chấm phá điểm xuyết đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên mùa xuân sống động. Đại thi hào Nguyễn Du còn lựa chọn nhiều từ ngữ có tính gợi hình gợi cảm để miêu tả cảnh thiên nhiên cùng với tâm trạng của hai nhân vật chính Thúy Kiều Thúy Vân như nô nức, dập dìu, ngổn ngang, tà tà…

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2. Soạn bài Cảnh ngày xuân: Đọc hiểu 

2.1 Chú ý việc sử dụng từ ngữ để miêu tả mùa xuân.

Những từ ngữ được tác giả sử dụng để miêu tả mùa xuân là “ngày xuân”, “chín chục đã ngoài sáu mươi”,...

Những từ này không chỉ nói về mùa xuân mà còn ám chỉ sự nhanh chóng của thời gian khí nó trôi qua rất nhanh, thoáng cái đã bước sang tháng thứ ba của năm mới.

2.2 Lễ hội mùa xuân được khắc họa qua các hình ảnh nào?

Lễ hội mùa xuân được khắc họa qua hai hình ảnh của tiết Thanh Minh. Ngày này có hai hoạt động chính là:

  • Lễ Tảo Mộ - người người nhà nhà cùng nhau sửa sang và dọn dẹp phần mộ của những người nhà đã mất.

  • Hội Đạp thanh là lúc mọi người đi du xuân vãn cảnh ngày tết.

- Lễ hội mùa xuân được thể hiện qua từ ngữ đa dạng:

  • Các động từ “nô nức”, “gần xa”, “ngổn ngang”,...đã bộc lộ được tâm trạng vui vẻ tưng bừng khi tham gia hội ngày tết.

  • Những hình ảnh đẹp đẽ như “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” đã giúp người đọc thấy được sự đông vui náo nhiệt của những người tham gia lễ hội truyền thống, mang văn hóa của dân tộc ta.

2.3 Cảnh vật buổi chiều được miêu tả có gì khác với cảnh vật buổi sáng?

Cảnh vật buổi sáng được tác giả miêu tả với những động từ, tính từ thể hiện được sức sống mãnh liệt cũng như niềm vui sự rộn ràng và náo nức của mọi người. Cảnh vật lúc đó mang vẻ đẹp tinh khôi trong trẻo.

Ngược lại hoàn toàn cảnh vật buổi chiều lại được thể hiện với tâm trạng nao nao buồn rầu khi mất đi sự vui tươi buổi sáng. Lý do dễ hiểu nhất chính là cảnh vật được nhìn qua góc nhìn của những người đã sắp kết thúc những ngày lễ hội đầu năm.

3. Soạn bài Cảnh ngày xuân: Trả lời câu hỏi cuối bài 

3.1 Câu 1 trang 40 SGK Văn 9/1 Cánh diều 

Đoạn trích Cảnh ngày xuân kể lại việc gì? Xác định bố cục của đoạn trích.

- Đoạn trích cảnh ngày xuân đã kể về chuyến du xuân, tảo mộ của hai chị em Thúy Kiều - Thúy Vân. Có thể chia đoạn trích Cảnh ngày xuân thành 3 phần:

  • Phần 1: bốn câu thơ đầu tiên - miêu tả khung cảnh thiên nhiên mùa xuân tươi tắn, rực rỡ.

  • Phần 2: Tiếp theo đến “Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay ” - miêu tả hình ảnh của buổi lễ Thanh minh.

  • Phần 3: Đoạn còn lại - khủng cảnh khi hai chị em Thúy Kiều - Thúy Vân quay trở về sau ngày tảo mộ du xuân.

3.2 Câu 2 trang 40 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Qua bốn dòng thơ đầu, em hình dung quang cảnh mùa xuân được Nguyễn Du miêu tả như thế nào?

- Qua bốn dòng thơ đầu, em hình dung được quang cảnh mùa xuân đã được tác giả Nguyễn Du miêu tả:

  • Thời gian vào “ngày xuân”, “chín chục ngoài sáu mươi”,...Cách miêu tả thời gian nay đã cho người đọc cảm nhận thời gian trôi qua thật nhanh, thoáng cái đã đến tháng thứ ba của năm.

  • Không gian khi đó có “thiều quang”, đây là ánh sáng của thiên nhiên mùa xuân rực rỡ.

  • Bức tranh thiên nhiên có “Cỏ non xanh tận chân trời” là không gian có màu xanh mướt của cỏ non, tràn ngập sự sống hơi thơ của mùa xuân.

  • Trên bức tranh xanh ngắt đó lại thấp thoáng “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Nghệ thuật đảo ngữ đã nhấn mạnh hình ảnh bông hoa lê màu trắng được điểm xuyết trong khung cảnh màu xanh đó, đây chính là điểm đặc trưng của mùa xuân. Động từ “điểm” như một ngòi bút chấm phá để tô điểm nét màu đậm cho cảnh mùa xuân tươi mát, giúp cho hình ảnh mùa xuân trở nên có hồn và sống động hơn hẳn.

=> Chỉ qua vài câu thơ, vài hình ảnh thiên nhiên và vài nét chấm phá mà bức tranh thiên nhiên mùa xuân như được hiện ra trước mắt người đọc. Đó chính là sự tài tình trong giọng thơ của đại thi hào Nguyễn Du.

3.3 Câu 3 trang 40 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Lễ hội trong tiết thanh minh được miêu tả qua những hình ảnh nào trong tám dòng thơ tiếp theo?

Trong tám dòng thơ tiếp theo, lễ hội trong tiết thanh minh đã được miêu tả qua những hình ảnh:

- Khung cảnh tết Thanh Minh có:

  • Lễ Tảo mộ là lễ thăm phần mộ người đã khuất.

  • Hội Đạp thanh là thời điểm tất cả mọi người du xuân.

  • Các từ ngữ và hình ảnh được dùng để miêu tả không khí lễ hội là: gần xa nô nức, yến anh, chị em, bộ hành, tài tử giai nhân, ngựa xe, áo quần, ngổn ngang, tro tiền giấy…

Tất cả các hình ảnh trên đã nhấn mạnh được không khí lễ hội nô nức náo nhiệt cũng như truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam ta.

3.4 Câu 4 trang 40 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Hãy so sánh bức tranh thiên nhiên ở bốn dòng thơ đầu và sáu dòng thơ cuối, phân tích để thấy được mối quan hệ giữa cảnh vật và tâm trạng của chị em Thuý Kiều trong đoạn trích.

Bức tranh thiên nhiên ở bốn dòng thơ đầu được thể hiện với giọng thơ vui vẻ cùng với màu sắc tươi tắn với khung cảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống. Ngược lại, trong sáu dòng thơ cuối thì đoạn văn trở nên vắng lặng và yên bình hơn.

Cảnh vật và tâm trạng của chị em Thuý Kiều trong đoạn trích được gắn với nhau qua biện pháp tả cảnh ngụ tình. Giọng văn trong đoạn trích chuyển đổi từ thích thú vui tươi dần đến tiếc nuối và buồn bã. 

3.5 Câu 5 trang 40 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Khái quát những thành công về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và lễ hội ngày xuân của Nguyễn Du trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (việc sử dụng ngôn từ, xây dựng hình ảnh; những biện pháp nghệ thuật chủ yếu; thể thơ lục bát....).

- Nghệ thuật miêu tả: Với những hình ảnh giàu chất tạo hình đã khiến cho bức tranh thiên nhiên đầy sống động như được hiện ra trước mắt người đọc. 

- Các từ ngữ có tính gợi hình gợi cảm cao như nô nức, ngổn ngang, tà tà, dập dìu,..

- Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng dày đặc mà tinh tế như phép so sánh, phép ẩn dụ,...

- Sử dụng nhiều từ láy để miêu tả tâm trạng của con người cũng như miêu tả cảnh vật tự nhiên. Qua thiên nhiên đã diễn tả được tâm trạng của con người một cách rất tinh tế.

Cuộc du xuân của hai chị em Thúy Kiều - Thúy Vân đã được miêu tả theo trình tự thời gian.

3.6 Câu 6 trang 40 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Trong đoạn trích trên, em thích nhất hình ảnh nào? Vì sao?

Trong đoạn trích trên, em thích nhất hình ảnh thơ của hai câu “Cỏ non xanh tận chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.

Đây là hai câu thơ thể hiện rő nhất vẻ đẹp của cảnh sắc mùa xuân. Không gian không chỉ đẹp bởi khung cảnh màu xanh mát mà còn điểm xuyết thêm màu trắng của hoa lê mà còn là điểm nhấn của mùi thơm nhè nhẹ của cỏ non. Màu xanh ấy như được trải dài đến tận cuối chân trời. Những màu trắng li ti được điểm nhẹ lên trên phong cảnh chính là màu của mùa xuân, của sự tinh khôi, của sức sống mãnh liệt.

 

Trên đây VUIHOC đã cùng các bạn Soạn bài Cảnh ngày xuân| Văn 9 tập 1 Cánh diều . Để có thêm nhiều kiến thức của các môn học trong giáo trình trung học, các em hãy thường xuyên truy cập và website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với giáo viên của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-canh-ngay-xuan-van-9-tap-1-canh-dieu-4285.html

 

 

Tovább

Soạn bài Tự đánh giá: Cảnh vui của nhà nghèo| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Dưới đây là phần soạn bài Tự đánh giá: Cảnh vui của nhà nghèo| Văn 9 tập 1 Cánh diều dễ hiểu và đầy đủ nhất mà VUIHOC đã chuẩn bị cho các em tham khảo. Bài viết sẽ giúp các em thấy được rằng không phải cuộc sống vật chất sẽ quyết định tất cả mà đời sống tinh thần cũng là vấn đề vô cùng quan trọng.

Soạn bài Tự đánh giá: Cảnh vui của nhà nghèo Văn 9 tập 1 Cánh diều

1. Câu 1 trang 31 SGK Văn 9/1 Cánh diều 

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản

Lời giải chi tiết:

Đáp án đúng là D. Song thất lục bát

2. Câu 2 trang 31 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản và chú ý vào nội dung và cảm xúc

Lời giải chi tiết:

Đáp án đúng là C.Vui vì nhà nghèo mà ấm cúng, con cái chăm ngoan

3. Câu 3 trang 31 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản

Lời giải chi tiết:

Đáp án đúng là A. Câu song thất tái hiện cuộc sống đạm bạc, câu lục bát thể hiện thái độ vui vẻ, đoàn kết trong gia đình

4. Câu 4 trang 31 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản

Lời giải chi tiết:

Đáp án đúng là C.Từ ngữ giản dị, mộc mạc, thân mật, gần gũi

5. Câu 5 trang 32 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản sau đó liên hệ so sánh văn bản khác

Lời giải chi tiết:

Đáp án đúng là C. Cùng sử dụng thể thơ song thất lục bát

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

6. Câu 6 trang 32 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Nội dung chính của bài thơ có liên quan như thế nào đến nhan đề Cảnh vui của nhà nghèo?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản cùng với nhan đề, tìm mối liên hệ giữa nội dung với nhan đề

Lời giải chi tiết:

Nội dung chính của bài thơ "Cảnh vui của nhà nghèo" có mối liên quan vô cùng chặt chẽ với nhan đề. Bài thơ tả lại cảnh vui vẻ của một gia đình nghèo, nơi mà niềm vui không phụ thuộc vào bất cứ thứ tài sản vật chất nào mà tồn tại ở trong tình yêu thương cùng với sự đoàn kết gia đình.

Nhan đề "Cảnh vui của nhà nghèo" xác định một bối cảnh chủ đề đó là nhà nghèo, nhưng điểm nổi bật ở trong nhan đề đó là từ "vui". Nhan đề được đặt trước với một trạng thái tích cực, một trạng thái vui vẻ và hạnh phúc. Vì vậy, nội dung chính trong bài thơ là nói đến hoàn cảnh nghèo khó của gia đình nhưng vượt lên trên tất cả đó là niềm vui ấm áp cùng với sự yêu thương nhau trong hoàn cảnh khó khăn và giữ tinh thần lạc quan, niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn. Nhan đề bài thơ đã khái quát rất đúng về nội dung của cả bài

7. Câu 7 trang 32 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Hãy tìm ra các từ láy từ dòng 19 đến dòng 28 và cho biết tác dụng của chúng ở trong đoạn thơ.

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản từ dòng 19 tới 28

Lời giải chi tiết:

Những từ láy: xa xa, khó khăn, quây quần, chồng chồng, vợ vợ, con con, chiều chiều, tối tối, mai mai, thảnh thơi.

Tác dụng:

+ Tạo ra sự sinh động và hấp dẫn cho đoạn thơ

+ Nhấn mạnh vào sự quây quần, yêu thương của gia đình giữa vợ chồng với con cái cùng nhau vượt qua được những tháng ngày khó khăn

8. Câu 8 trang 32 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Nhận xét về vần và nhịp trong bài thơ

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản sau đó tìm vần và nhịp

Lời giải chi tiết:

Bài thơ sử dụng nhịp thơ rất đa dạng: 4/4, 3/4, 2/2/2,…. khiến cho giọng thơ trở nên linh hoạt và sinh động

Cách gieo vần cũng tuân thủ theo quy tắc của thể thơ song thất lục bát

9. Câu 9 trang 32 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Theo em, cái vui của cảnh nhà nghèo đã được thể hiện qua bài thơ này là gì?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản sau đó rút ra nội dung cốt lői

Lời giải chi tiết:

Cái vui của cảnh nhà nghèo chính là mặc dù khó khăn, vất vả nhưng vợ chồng và con cái vẫn luôn đoàn kết, yêu thương nhau. Vợ chồng luôn quan tâm nhau, con cái biết cách giúp đỡ cha mẹ, dù cho nghèo khó nhưng họ vẫn luôn cảm thấy hạnh phúc.

Trên nền tảng ấy, vợ chồng trong gia đình nhà nghèo biết quan tâm, chia sẻ và yêu thương lẫn nhau. Họ không để cho cuộc sống khó khăn làm mất đi tình yêu thương và sự quan tâm dành cho nhau. 

Ngoài ra, bài thơ cũng nhấn mạnh về vai trò quan trọng của con cái ở trong gia đình nhà nghèo. Dù còn nhỏ và không có được nhiều tài sản, con cái vẫn hiểu và biết giúp đỡ cha mẹ. Họ chia sẻ gánh nặng cho gia đình, cống hiến và tạo điều kiện tốt nhất dành cho cuộc sống của gia đình.

Mặc dù phải đối diện với nghèo khó, nhưng gia đình nhà nghèo ở trong bài thơ vẫn cảm nhận được sự hạnh phúc và niềm vui từ tình yêu cùng với sự đoàn kết gia đình. Điều này cho thấy rằng cái vui không chỉ phụ thuộc vào mặt vật chất mà còn xuất phát từ tình cảm và sự sum vầy ở trong gia đình.

10. Câu 10 trang 32 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Em thích nhất câu thơ nào ở trong bài Cảnh vui của nhà nghèo? Tại sao?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản và liên hệ bản thân

Lời giải chi tiết:

Em thích nhất là câu thơ “Bày ra cái cảnh có trời/Vui buồn cũng tự ở người thế gian” vì hai câu thơ chính là triết lí hết sức đúng đắn. Câu thơ đã khẳng định rằng niềm vui và nỗi buồn không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài mà nằm hoàn toàn trong tâm thái và suy nghĩ của mỗi người. Bất kể bạn đang sinh sống trong hoàn cảnh giàu có hay nghèo khó, sự vui vẻ hay sự buồn bã đều phụ thuộc vào cách mà bạn nhìn nhận và đánh giá cuộc sống.

Câu thơ này muốn khuyến khích chúng ta tìm kiếm được niềm vui từ bên trong và không phụ thuộc quá nhiều vào những thứ tài sản vật chất. Nó nhấn mạnh rằng trạng thái tâm lý và cách tiếp nhận cuộc sống của mỗi chúng ta quan trọng hơn nhiều so với những thứ tài sản và cảnh vật xung quanh.

 

Phần Soạn bài Tự đánh giá: Cảnh vui của nhà nghèo| Văn 9 tập 1 Cánh diều phía trên sẽ tiếp thêm sự tự tin cho người đọc rằng dù cuộc sống có nghèo khó nhưng chỉ cần luôn lạc quan với nhau thì vẫn có niềm vui. Ngoài bài soạn phía trên ra, nếu muốn tham khảo về nhiều bài soạn văn khác hoặc những bài soạn khác của môn học khác thì em hãy nhanh tay truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC đó là vuihoc.vn để đăng ký ngay cho mình khoá học thật nhanh chóng và được nghe giải đáp trực tiếp từ thầy cô giáo có trình độ và chuyên môn cao của VUIHOC nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-tu-danh-gia-canh-vui-cua-nha-ngheo-van-9-tap-1-canh-dieu-4284.html

 

Tovább

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Qua bài viết dưới đây, Vuihoc sẽ mang đến cho các em Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Bài soạn này sẽ bao gồm phương pháp để phân tích một tác phẩm thơ và có hai bài phân tích chi tiết tác phẩm thơ “Khóc Dương Khuê” của tác giả Nguyễn Khuyến cho các em tham khảo.

 

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ Văn 9 tập 1 Cánh diều

Đề bài: Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến 

1. Lập dàn ý phân tích một tác phẩm thơ

Các bước lập dàn ý phân tích một bài thơ:

a) Chuẩn bị:

  • Đọc thật kỹ đề bài được đưa ra và xác định rő ràng các yêu cầu của đề bài.

  • Đọc lại tác phẩm cần phân tích

  • Tìm hiểu sơ lược về thể thơ mà tác phẩm đã sử dụng

  • Tìm hiểu về bối cảnh sáng tác và tác giả

  • Chú ý xác định lại chính xác nội dung mà tác phẩm muốn nói đến là gì

  • Xác định hình thức nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ và tìm ra ý nghĩa của việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật đó.

b) Tìm ý chính và lập dàn ý chi tiết

  • Bối cảnh của tác phẩm, đề tài và chủ đề chính của bài thơ là gì?

  • Nội dung của bài thơ có gì đặc sắc?

  • Nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ có gì đặc sắc?

  • Các biện pháp nghệ thuật đã góp phần giúp cho bài thơ nổi bật như thế nào?

  • Qua bài thơ, người đọc rút ra được nội dung gì và bài học như thế nào trong cuộc sống của chính mình?

  • Có thể học được điều gì từ tác phẩm thơ đó?

Dàn ý phân tích tác phẩm Khóc Dương Khuê của tác giả Nguyễn Khuyến được sắp xếp theo bố cục ba phần:

- Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khuyến

  • Giới thiệu khái quát về nhân vật chính Dương Khuê

  • Nói về cội nguồn của tình bạn giữa hai người để người đọc thấy được lý do nỗi buồn của tác giả.

- Thân bài:

  • Bối cảnh sáng tác của tác phẩm

  • Sự kiện nào đã diễn ra khiến cho tác giả có cảm xúc mãnh liệt đến thế.

  • Nguồn cảm xúc nào đã khiến tác giả viết ra bài thơ này

  • Chủ đề chính của bài thơ mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc

  • Phân tích nội dung của từng đoạn thơ và các biện pháp nghệ thuật có trong đó để biểu đạt rő ràng nội dung của tác phẩm

  • Lựa chọn thêm một số tác phẩm tương tự để làm nổi lên nội dung của “Khóc Dương Khuê” hoặc so sánh với các tác phẩm khác của tác giả Nguyễn Khuyến nhằm thấy được sự khác biệt trong việc sử dụng nghệ thuật trong tác phẩm này của tác giả.

- Kết bài

  • Khẳng định lại một lần nữa tình bạn đẹp đẽ của tác giả Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. Qua đó nhấn mạnh lại nỗi đau của tác giả khi mất đi người bạn thân thiết tri kỷ nhất

  • Khái quát nội dung của tác phẩm

  • Nêu lại những biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng và phân tích ý nghĩa của chúng.

  • Nói lên cảm nghĩ của bản thân mình và những tác động mà tác phẩm Khóc Dương Khuê đã mang lại cho người đọc.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2. Bài viết tham khảo 1

Trong kho tàng văn học của dân tộc Việt Nam ta, nhà thơ Nguyễn Khuyến chiếm một vị trí huy hoàng khi ông nắm trong tay rất nhiều tác phẩm có giá trị to lớn về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Ông là nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ xuất sắc chứa đựng trong đó những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam được thể hiện bằng tiếng Việt trong sáng, giản dị và không kém phần thanh lịch.

Có thể nói tình bạn của Nguyễn Khuyến với Dương Khuê tuy rất đẹp nhưng lại không phải là một tình bạn trọn vẹn. Dù cùng nhau đỗ cử nhân, cùng khoa thi, cùng đỗ tiến sĩ và cùng làm quan dưới triều Nguyễn nhưng sau năm 1884, khi mà năm đất nước thực sự mất vào tay thực dân Pháp thì Dương Khuê lại lựa chọn con đường trái ngược với Nguyễn Khuyến. Ông không từ quan về làng mà Dương Khuê lại tiếp tục làm quan cho chính quyền thực dân cho đến tận khi qua đời vào năm 1902, ở tuổi 64. Tuy không còn cùng chí hướng, không còn thân thiết với nhau nhưng cái chết đột ngột của Dương Khuê vẫn là một nỗi đau lớn đối với Nguyễn Khuyến. Lúc đó quên đi tất cả sự xa cách, anh chỉ biết một điều: anh đã mất đi một người bạn thân, một tình cảm quý giá không gì có thể thay thế được. Lúc ấy, từ tận đáy lòng, từ một tình bạn mà dường chính ông không thể hình dung hết được sự quý giá, Nguyễn Khuyến chợt thốt lên:

Bác Dương thôi đã, thôi rồi,

Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.

Trong hai câu thơ gần như không có chút biện pháp nghệ thuật nào, không được chau chuốt câu từ nhưng nó lại là cảm xúc chân thật nhất của Nguyễn Khuyến. Nhất là ở dòng thơ đầu tiên chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành và trọn vẹn được bật ra bằng lời nói. Tiếng “thôi” được lặp lại hai lần rất giản dị và tự nhiên như xuất phát từ tâm hồn của một người nông dân chất phác bình dị. Câu thơ này xuất hiện trong một xã hội mà "sự cao nhã" là yếu tố được coi là yêu cầu cơ bản của văn học, chúng ta càng thấy được sự chân thành của nhà thơ với người bạn của mình. Khi nhắc tới cái chết, ông không dám dùng đến chữ “chết” mà chỉ lặp lại “thôi đã, thôi rồi”. Nhưng dù đau đớn đến tột cùng thì Nguyễn Khuyến vẫn không hề khóc lên tiếng, không gào thét mà nén tiếng khóc vào trong lòng mình, trong tâm trí của mình. Không cần ồn ào cho mọi người biết mà lúc này ông chỉ muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, hồi tưởng về tình bạn của họ, cùng bạn ôn lại những chuyện đã xảy ra giữa hai người. Có rất nhiều kỷ niệm giữa họ nay đã trở nên xa xôi hơn bao giờ hết:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời

Đó là kỷ niệm lần đầu tiên họ gặp nhau ở khoa thi Hương và cả hai đều thi đậu. Nguyễn Khuyến quê Bình Lục, Hà Nam còn Dương Khuê quê Vân Đình, Hà Đông.  Hai người hoàn toàn không có chút liên kết nào, không hề quen biết nhau. Ấy vậy mà, tựa như số mệnh trời ban, tình bạn bắt đầu lại được bắt đầu từ thời điểm đó. Từng câu, từng chữ mà Nguyễn Khuyến sử dụng thật giản dị, thật gần gũi. Có “lúc sớm hôm”, xưng hô "tôi bác" rồi lại “cùng nhau”…Dường như nhà thơ cũng xác định được tình bạn của hai người ngay từ cái nhìn đầu tiên. Với giọng điệu chân thành như vậy, nhà thơ gợi lên những ký ức khác:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Kỷ niệm của hai người quả thực rất nhiều, rất sâu đậm. Họ đã có những khoảng thời gian ý nghĩa bên nhau, họ chính là những người bạn có cùng chí hướng, cùng chia sẻ những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống. Nhớ lại những kỷ niệm ấy, tâm hồn người viết vẫn xúc động trước tiếng suối “róc rách lưng đèo” ở nơi “dặm khách” xa xôi. Nhà thơ dường như lên cỗ máy thời gian, trải qua lại lần nữa cảm giác phấn khích khi ở “nơi từng gấc cheo leo”, cùng nhau lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của những người nông dân. 

Đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến hay với đa số nhà thơ khác, những tiếng hát tiếng đàn từ các ả đào là nơi họ có thể cảm nhận và thưởng thức sự đẹp đẽ của giai điệu và ngôn từ. Nguyễn Khuyến không có những bài thơ nói về chủ đề này nhưng hiển nhiên ông không thể quên tiếng đàn đó, không quên được những lúc chính ông trút hết tâm hồn mình theo tiếng đàn hát. Là đôi bạn thân thiết gần như làm gì cũng có nhau, gắn bó với nhau, ngưỡng mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thực sự là giao thoa của những tâm hồn đồng điệu: 

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,

Chén quỳnh tương ấm áp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Khi nói về việc uống rượu với bạn bè, nhà thơ dùng từ “nhấp”. Đây là động từ rất chính xác và tinh tế, bởi khi nói về việc uống rượu thì ông chỉ “uống cho vui”, chứ không phải là uống cho say hay uống vì nghiện cồn. Nhà thơ đã từng nói về khả năng uống rượu của mình trong tác phẩm Thu ẩm:

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè.

Những chiếc cốc mà ta dùng để uống rượu thời xa xưa thường rất nhỏ hay được gọi là “chén hạt mít”. Người uống rượu mà “nhấp” có nghĩa là uống thành từng ngụm nhỏ, như vừa chạm vào môi đã dừng, vừa uống vừa suy nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức hương vị đậm đà mà thơm cay của rượu. Uống rượu nhưng lại “ấm áp bầu xuân”. Bầu xuân chính là bầu rượu và cũng là "bầu thơ", bầu rượu càng đầy đặn thì bầu thơ càng ý nghĩa. Uống rượu để mua vui, để tìm sự liên kết nhưng cũng có những khi hai người chọn uống để giải sầu. Đó là khi họ gặp cảnh mất nước, là khi hai nhà nho dưới cùng một triều đại, hai người bạn cùng chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đấu thăng chẳng dám than trời

Bác già, tôi cũng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!

Bốn câu thơ trên Nguyễn Khuyến đã viết với tâm trạng buồn bã, chán nản. “Buổi dương cửu” ám chỉ thời kỳ hỗn loạn khi thực dân Pháp xâm lược đánh chiếm nước ta. Nhà thơ coi đây như một vận mệnh mà đất nước và tất cả người dân Việt Nam phải chấp nhận trải qua. Không thể làm gì trước tình cảnh này, nhà thơ Nguyễn Khuyến chỉ còn một lựa chọn từ bỏ chức vụ và rời xa chốn quan trường để bảo vệ chí hướng của mình. Nhà thơ lựa chọn cuộc sống yên bình an phận nhưng nghe có vẻ đau đớn. Ông cảm thấy bất lực đặc biệt ở câu thơ cuối có đến ba từ “thôi” lặp lại lại liên tiếp bổ sung cho nhau, tạo ấn tượng về một sự cam chịu rất nặng nề. Tuy biết thôi nhưng lại thôi và rồi vẫn là thì thôi. Đây chính xác là tâm trạng của nhà thơ khi về quê. Ông buồn vì đất nước mất nhưng lại không thể làm được gì cho đất nước ngoài việc từ chức để không làm việc cho giặc.

Qua 16 câu thơ, Nguyễn Khuyến đã gợi lại ký ức của bản thân và đầy đủ về tình bạn giữa hai người cùng chí hướng Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. Đặc biệt là khẳng định được độ sâu sắc và bền vững của tình bạn này. Ký ức của nhà thơ được gợi lên một cách giản dị nhưng đầy sự tiếc nuối và trân trọng. Nhớ lại những kỷ niệm ấy, ông lại lần nữa suy ngẫm về tình bạn này, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật sự không thể tin được. Ông chưa bao giờ tưởng tượng được sự mất mát to lớn này  lại có thể ập đến vào thời điểm đó:

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác

Trước ba năm gặp bác một lần

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Về phương diện nghệ thuật thì bốn dòng thơ trên thực ra không phải là những câu thơ ấn tượng hay đặc sắc  bởi những dòng thơ này khá đời thường. Đây chính là những câu nói thường ngày với “tuổi già thêm nhác”, rồi “hỏi hết xa gần"  hay “tinh thần chưa can”. Giọng thơ này đậm chất làng quê, đúng như lời nói của một ông nông dân chân chất của quê hương Hà Nam. Đúng là Nguyễn Khuyến không làm văn mà dường như ông chỉ bày tỏ tâm trạng của mình. Thậm chí, nhà thơ còn tự lý luận với chính mình:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác

Tôi lại đau trước bác mấy ngày

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!

Chỉ khi con người thực sự đau khổ mới có lý lẽ như vậy. Chẳng khác gì Nguyễn Khuyến hỏi tại sao mình không phải người chết trước, tại sao mình lại phải chịu nỗi đau này khi rő ràng ông lớn tuổi hơn người bạn của mình. Chính từ những lý lẽ ấy mà những lời cuối cùng của bài thơ hiện lên đầy chân thành và ai oán: 

Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua.

Chết là một quy luật tự nhiên mà không ai có thể cưỡng cầu được. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến lại tìm ra sự phi lý của cuộc đời khi cái chết của bạn mình xảy ra quá nhanh. Ngay lập tức nó cướp đi một người bạn tốt của ông và vì thế cũng cướp đi mọi niềm vui của ông. Bài thơ của ông viết về cảm xúc của chính mình, viết về trường hợp của các nhân mình tưởng chừng như đơn giản nhưng lại vang lên sự thật về tình bạn chân chính trong cuộc sống:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Trong hai dòng thơ, chữ “không” xuất hiện năm lần như nhấn mạnh nỗi buồn không thể nào tả được. Không còn bạn bè, không còn ham muốn uống rượu, vì không còn ai để chia sẻ hương vị thơm ngon của rượu. Không bạn bè, ông không tìm được hứng thú để làm thơ:

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

Hai câu thơ là câu hỏi nhưng hỏi cũng có nghĩa là nói “không”. Nếu thơ được viết ra mà không ai có thể thưởng thức hay đồng cảm với nó thì tại sao lại viết nó? Ông thấy tình bạn giữa mình và Dương Khuê cũng chính là sự tri kỷ về tâm hồn cho nên sự mất mát đối với ông sau cái chết của Dương Khuê chính là sự mất mát khi mất đi một nửa hiểu mình:

Giường kia treo cũng hững hờ

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

Sự mất mát này có thể bù đắp được không? Nhà thơ đã lập tức trả lời bằng câu khẳng định nhưng lại là chữ “không”. Cách duy nhất, như mọi người thường làm chính là tìm cách tự an ủi mình. Rằng người chết không thể sống lại được nữa, những giọt nước mắt thương xót sẽ chẳng ích gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng lẽ thường tình này của cuộc sống để an ủi chính bản thân mình:

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

Nhà thơ tự khuyên nhủ bản thân đừng khóc bởi ông biết ở độ tuổi này thì nước mắt có rất ít, cùng lắm chỉ như giọt sương mỏng manh, làm sao buộc nước mắt phải chảy thành hai dòng? Nhưng cũng chỉ là nói thế thôi vì bản thân nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” và càng hiểu rő hơn rằng hai hàng nước mắt trào ra từ khóe mắt lúc đó không phải do ông ép buộc cơ thể tạo ra mà trong mỗi câu thơ của ông đều chứa đựng đầy nước mắt. Đây là nước mắt của nỗi đau tột cùng, của tình bạn cao đẹp. 

Có thể nói trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện những tình cảm đẹp đẽ, chân thành nhưng cho đến nay, chưa có bài thơ nào về tình bạn có thể so sánh được với bài thơ “Khóc Dương Khuê” của tác giả Nguyễn Khuyến. Vẻ đẹp của bài thơ này trước hết đến từ tình bạn đẹp và chân thành của hai tâm hồn cao thượng. Vẻ đẹp này còn là vẻ đẹp của nghệ thuật diễn đạt, của ngôn ngữ diễn đạt giản dị, tự nhiên, mang đậm chất vùng miền, hoàn toàn phù hợp với nội dung tình cảm và cảm xúc mà nhà thơ muốn thể hiện ra cho người đọc hiểu được.

3. Bài viết tham khảo 2 

Từ lần đầu gặp nhau trong kỳ thi Hương, Nguyễn Khuyến và Dương Khuê đã lập tức trở thành hai người bạn vô cùng thân thiết và thấu hiểu nhau. Họ cùng làm quan dưới thời nhà Nguyễn vào thời điểm đất nước đang có nhiều biến động khiến giới trí thức đương thời vừa bất lực lại chán nản. Càng trải qua nhiều kỷ niệm và đủ cung bậc cảm xúc khiến cho hai người lại càng hiểu và gần gũi nhau hơn. Sự gắn bó của đôi  tri kỷ này thực sự hiếm có trong đời người. Vì vậy, khi nghe tin Dương Khuê qua đời vì bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Khuyến đã vô cùng bàng hoàng và đau buồn vì giờ đây không còn một người nào có cùng suy nghĩ giống ông. Họ là những người bạn tâm giao, tri kỷ mà ông có thể chia sẻ tất cả những cảm xúc cá nhân trong cuộc sống của mình. Nguyễn Khuyến viết bài thơ Khóc Dương Khuê để bày tỏ sự tiếc thương cho người bạn đã khuất.

Dương Khuê sinh năm 1839 mất năm 1902 với tên tự là Giới Như và hiệu Vân Trì. Ông là một người học rất giỏi, cùng khóa với Nguyễn Khuyến, lấy bằng tiến sĩ năm 1868 rồi làm quan cùng thời Nguyễn Khuyến. Nhưng cuộc đời làm quan của cả hai ông lại trải qua nhiều thăng trầm bấp bênh. Gặp thời đất nước mất vào tay thực dân, triều chính thay đổi nên Dương Khuê từ chức ở tuổi 58 và nghỉ hưu để cống hiến hết mình cho rượu, thơ ca và ca hát. 

Mở đầu bài thơ là sự bàng hoàng, hoang mang của Nguyễn Khuyến khi biết về cái chết đột ngột của người bạn Dương Khuê:

"Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta."

Nguyễn Khuyến gọi bạn mình bằng đại từ nhân xưng “Bác Dương" rất gần gũi, thân mật, đồng thời còn thể hiện tình cảm vô cùng trân trọng, trìu mến của bạn bè đồng trang lứa. Cách gọi này giống với lúc Dương Khuê còn sống và hai người thường xuyên nói chuyện với nhau. Cụm từ “thôi đã thôi rồi” ở câu thơ đầu tiên đã lặp lại liên tiếp từ “thôi”. “Thôi” thứ nhất đã thể hiện sự tiếc nuối, buồn bã khi ông nhận ra mình đã đánh mất điều quan trọng nhất trong cuộc đời của mình. Còn “thôi” thứ hai là ẩn ý về sự ra đi của Dương Khuê. Nỗi đau mất đi người bạn này thật đau đớn và khiến ông buồn bã. Người ra đi nhẹ nhàng không vấn vương nhưng lại khiến người ở lại dằn vặt và buồn bã vô cùng. Nỗi đau này không chỉ ở trong tâm hồn tác giả mà giống như nước chảy, mây trôi, lan rộng đến tận cùng trái đất. 

Giọng điệu ở hai dòng đầu nhẹ nhàng, tĩnh lặng nhưng mang lại cảm giác buồn bã, thể hiện rő hơn nỗi đau mất đi người bạn thân của Nguyễn Khuyến.

Trong sự mất mát to lớn này, Nguyễn Khuyến dần nhớ lại khoảng thời gian họ ở bên nhau, cùng nhau chia sẻ vui buồn:

"Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;

Có khi tầng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Phận đấu thăng chẳng dám tham trời"

Hãy nhớ đến ngày đầu tiên hai người gặp nhau và cùng nhau vượt qua kỳ thi, cùng nhau “sớm hôm” bàn về chuyện đời chuyện người. Đây chính là mối quan hệ tình bạn thân thiết của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến. Hai người họ luôn tôn trọng nhau, yêu mến, thấu hiểu lẫn nhau và đối xử với nhau trước sau như một. Việc gặp gỡ và trở thành tri kỷ của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến rất ngẫu nhiên nhưng lại rất vững bền, giống như thiên mệnh đã định sẵn. Đó chính là mối quan hệ trăm năm chỉ có một lần, không hề dễ dàng. Đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn vô tận, Nguyễn Khuyến lại quay trở về những năm tháng huy hoàng của tuổi thanh xuân bên người bạn quá cố. Đâu rồi những tháng ngày ta còn trẻ khỏe, rong chơi khắp chốn xa xôi, leo núi trèo đồi nghe tiếng suối róc rách và những ngày lặng lẽ trên gác xép dốc. Họ cùng nghe các ả đào hát ca, cùng nhớ những ngày đêm bên nhau với chén rượu thơm quý, cùng nhau làm thơ, cùng nhau ngâm thơ, rồi tỉ tê trò chuyện qua lại. Rồi có những ngày cùng nhau vào học đường nghiên cứu Tam Phần, Ngũ Kinh để hiểu đạo lý của người xưa. Để rồi, suốt quãng đời còn lại, họ cùng nhau thi cử, cùng nhau làm quan phục vụ triều đình, và dù mũ quan trên đầu có nặng trĩu, dù thời thế loạn lạc và nhiều lý do bất đồng quan điểm nhưng cả hai vẫn cùng nhau vượt qua để trở lại làm người bạn tâm giao với nhau. Chia sẻ, thấu hiểu và cùng nhau vượt qua nhưng không hề phàn nàn về bất cứ điều gì. Biết bao kỷ niệm đẹp tựa như mới hôm qua mà nay mỗi người một thế giới. Người còn nhưng người còn lại đã về chốn Tây Phương. Nguyễn Khuyến càng nghĩ mà càng buồn bã hơn.

Khi còn trẻ, là lúc ông có sức mạnh và ý chí kiên cường. Nhưng đến lúc tuổi già, mọi thứ không còn như xưa nữa chỉ có tình cảm tri kỷ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vẫn không thay đổi dù vì thời gian có trôi đi. Hai người càng trở nên gắn bó và gần gũi nhau hơn:

"Bác già, tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần;

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can"

Khi già đi, sức lực hao mòn, những thú vui của tuổi trẻ dần trở thành thứ xa xỉ. Tuy nhiên, dù xa nhau về khoảng cách, dù đã lâu không gặp nhưng tình bạn thân thiết vẫn ngự trị mãi trong lòng Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, không bao giờ nguội lạnh. Họ vẫn thân thiết như xưa, vẫn có thể nắm tay nhau hỏi han chuyện gần xa. Dường như tất cả những câu chuyện đã lâu không được sẻ chia với ai đều được bộc lộ trong lần gặp mặt cuối cùng này, khi thấy người bạn của mình vẫn khỏe mạnh. Thấy bạn mình khỏe mạnh bình an là niềm hạnh phúc vô bờ bến của những người tri kỷ. Có thể thấy, dù đã già, không gặp nhiều lần nhưng Nguyễn Khuyến vẫn giữ được tình cảm sâu sắc này và luôn nhớ về người bạn thời xưa thường xuyên chia sẻ tâm tư, cùng chung một câu chuyện. Ký ức càng gợi nhớ, càng đẹp thì tác giả lại càng phải đối mặt với hiện thực phũ phàng và đau đớn khi những giấc mơ ngày xưa đã vĩnh viễn biến mất. Nguyễn Khuyến buộc phải đối mặt với hiện thực rằng người bạn Dương Khuê của mình đã ra đi mãi mãi. Ông đã thực sự đã mất đi người bạn quý giá nhất trong đời để giờ đây chỉ còn lại thân xác già nua cô độc trong thời loạn lạc.

"Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày;

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời"

Ông không khỏi buồn và tiếc nuối vì sao Dương Khuê rő ràng nhỏ hơn mình, ốm muộn hơn mình nhưng không hiểu sao lại vội vã đi trước. Lúc nhận được tin tức này Nguyễn Khuyến bị sốc và ngay lập tức tay chân rã rời vì không thể tin được tin dữ ập đến với mình lại như sét đánh ngang tai. Giờ đây người bạn tốt đã trở về miền cực lạc, để lại Nguyễn Khuyến một mình như một ông già cô đơn với nỗi đau, thất vọng và hoang mang vô cùng:

"Ai chẳng biết chán đời là phải,

Vội vàng sao đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa;

Giường kia treo những hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn."

Người bạn tốt của anh đã phải ra đi đã chết và Nguyễn Khuyến chỉ còn lại một mình với sự cô đơn và trống rỗng, không còn thèm muốn những thú vui nồng nàn một thời. Lúc này rượu ngon đã trở nên vô vị, thú vui làm thơ dần trở nên nhàm chán vì không còn người thấu hiểu để cùng chia sẻ, thưởng thức. Tình bạn thân thiết, gắn bó này được ví như những câu chuyện kinh điển của người xưa như tình bạn giữa Trần Phồn - Từ Trĩ hay như Tử Kỳ và Bá Nha,...

Trở lại với hiện thực, đối mặt linh hồn của người quá cố, Nguyễn Khuyến cuối cùng cũng thoát khỏi ký ức xa xôi và trở về hiện thực đầy đau thương. Nhưng dù Dương Khuê có chết đi thì tình yêu giữa hai người vẫn luôn trường tồn mãi mãi, là điều quý giá nhất trong cuộc đời mà Nguyễn Khuyến luôn trân trọng:

"Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!"

Nỗi đau này không thể hóa thành những giọt nước mắt dài vì Nguyễn Khuyến đã giấu nó sâu trong lòng, để mãi mãi nhớ về một người bạn tri kỷ. Những dòng cuối cùng là buông bỏ nhẹ nhàng và buồn bã, tâm hồn nhà thơ đành phải chấp nhận sự ra đi của người bạn của mình. Thôi đành hẹn kiếp sau lại trở thành tri kỷ của mình, kiếp này coi như vận mệnh của mình đã kết thúc. 

“Khóc Dương Khuê” là bài thơ cảm động, sâu sắc được Nguyễn Khuyến viết để tưởng nhớ người bạn đã khuất, qua đó ta thấy được những tình cảm quý báu, nồng nàn, sâu sắc giữa những người bạn thân, đồng thời ca ngợi sự thiêng liêng của tình trăm năm có một này. Với thể thơ song thất lục bát kết hợp với giọng thơ êm đềm, chậm rãi và ngôn ngữ giản dị tác giả lại càng tinh tế hơn khi lựa chọn sử dụng những câu chuyện lịch sử để góp phần làm tăng sức hấp dẫn của bài thơ và thể hiện thành công nỗi buồn của chính mình.

 

Qua bài viết trên, Vuihoc đã mang đến cho các em Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Hy vọng qua bài viết này các em sẽ có thêm những gợi ý và hướng dẫn trọng điểm cho tác phẩm, giúp các em hiểu tác phẩm một cách chi tiết hơn. Để bổ sung thêm nhiều kiến thức bổ ích với các chủ đề cũng như nội dung khác nhau, các em hãy thường xuyên theo dői các bài viết mới nhất của Vuihoc nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-phan-tich-mot-tac-pham-tho-van-9-tap-1-canh-dieu-4283.html

 

Tovább

Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Bài viết dưới đây chính là Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ| Văn 9 tập 1 Cánh diều mà Vuihoc gửi đến các em. Hy vọng qua bài soạn này các em sẽ mường tượng ra cảnh chia ly của đôi lứa cũng như sự xót xa của những người chinh phụ.

 

1. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Chuẩn bị 

Đọc trước văn bản Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; tìm hiểu thêm thông tin về tác giả Đặng Trần Côn và tác phẩm Chinh phụ ngâm.

- Tác giả Đặng Trần Côn: Đến tận ngày nay, những thông tin về nhà thơ Đặng Trần Côn đều rất ít và mơ hồ. Năm sinh năm mất của ông không có nhà sử học nào có thể xác nhận, họ chỉ có thể ước đoán ông sinh vào khoảng thời gian từ năm 1710 đến năm 1720.

  • Quê hương gốc của ông ở làng Nhân Mục - làng Mọc thuộc Thanh Trì. Ngày nay chính là phường Nhân Chính quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

  • Ông là người ham học, lại có tư chất thông minh nên ông đỗ Giải Nguyên trong kỳ thi Hương (năm 1726 đến năm 1738). Nhưng đến kỳ thi Hội thì ông không vượt qua nên từ đó ông không tham gia các kỳ thi nữa. 

  • Vào những năm 1740 đến năm 1786, ông làm chức Huấn đạo một huyện. Sau này chính là Tri huyện Thanh Oai thuộc thành phố Sơn Tây. Đến sau khi nghỉ hưu thì ông dạy học tại nhà ông Nguyễn Đình Kỷ.

  • Vào khoảng năm 1745, chưa đến 40 tuổi ông đã ra đi và được chôn cất tại làng Nhân Mục - nay là tổ dân phố 5 phường Hạ Đình.

-  Tác phẩm Chinh phụ ngâm:

  •  Tác phẩm Chinh phụ ngâm là một khúc ngâm của tác giả Đặng Trần Công viết vào năm 1741. Bản gốc do ông viết bằng chữ Hán, đến sau này mới có nhiều người dịch ra tiếng Nôm và tiếng quốc ngữ.

  • Bản dịch hiện nay nổi tiếng nhất được thể hiện bằng thể thơ song thất lục bát. Cả tác phẩm có 412 câu thơ.

  • Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong sách giáo khoa là 20 câu thơ từ dòng 208 đến dòng 228. Đoạn này nói về cảnh chia ly của cặp vợ chồng son, khi mà người vợ phải tiễn chồng ra nơi chiến trường. Đó còn là cảnh hào hùng của người lính cũng như sự xót xa với cảnh chết chóc tang thương trên chiến trường. Người vợ ở nhà vừa cô đơn buồn tủi lại lo lắng cho chồng mình cũng như khát khao về tương lai hạnh phúc khi chồng được trở về với gia đình.

2. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Đọc hiểu 

2.1 Chú ý cách diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ

Cách diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ đã gợi được cảm giác cô đơn đến buồn tủi. Qua đó còn thể hiện nỗi sầu khổ đau xót của người chinh phụ.

2.2 Nỗi lòng người chinh phụ đã được biểu hiện thế nào qua việc tả cảnh?

- Tác giả đã thể hiện được nỗi lòng của người chinh phụ qua những câu thơ tả cảnh

  • “Sương như búa, bổ mòn gốc liễu”

  • “Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô” 

Các câu thơ trên kết hợp với những động từ “bổ mòn”, “xẻ héo”,...đã khiến người đọc có cảm giác đau thương do chia lìa và hiu quạnh khi thấy xung quanh toàn sương mờ, bụi chim gù, tiếng dế, tiếng chuông,...

2.3 Hình ảnh gắn bó giữa “hoa” và “nguyệt” thể hiện điều gì?

Hình ảnh gắn bó giữa “hoa” và “nguyệt” đã thể hiện được sự gắn bó mật thiết và sự hài hòa trong tự nhiên. Qua đó càng thể hiện được sự cô đơn hiu quạnh của người chinh phụ trong đêm tối mờ mịt.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

3. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Trả lời câu hỏi cuối bài 

3.1 Câu 1 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

 Xác định bố cục của đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, cho biết nội dung chính của từng phần.

- Có thể chia đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thành ba phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến đoạn “tiếng trùng mưa phun” - Đoạn đầu này nói về nỗi nhớ thương chồng ở nơi xa của người chinh phụ.

  • Phần 2: “tiếng trùng mưa phun” đến “gió thốc ngoài hiên” - Sự cô đơn của người chinh phụ khi phải sống cô độc một mình.

  • Phần 3: “gió thốc ngoài hiên” đến hết - nói về khát vọng về một tương lai tươi sáng khi chồng trở về, hy vọng về hạnh phúc lứa đôi được trọn vẹn.

3.2 Câu 2 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Đoạn trích được viết theo thể thơ nào? Chỉ ra sự phù hợp của thể thơ ấy trong việc thể hiện nội dung đề tài ở văn bản này.

Đoạn trích được viết theo thể thơ cổ song thất lục bát: Thể thơ song thất lục bát đã thể hiện được chi tiết nội dung mà văn bản muốn nói đến. Qua thể thơ này, người đọc thấy được từng câu từng chữ như có nhạc điệu, hấp dẫn hơn và đem lại nhiều cảm xúc hơn bao giờ hết. Nhất là khi người đọc đi sâu vào trong thế giới nội tâm nhân vật và hiểu được rő cảm xúc của họ.

3.3 Câu 3 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Nỗi lòng người chinh phụ được thể hiện như thế nào? Đâu là nguyên nhân dẫn đến tâm trạng ấy?

Nỗi lòng của người chinh phụ được thể hiện rő ràng nhất là sự buồn tủi, cô đơn mà đau đớn khi xa chồng. Nhưng đó cũng là sự khát khao một tương lai tươi sáng hơn được hạnh phúc lâu bền.

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tâm trạng của người chinh phụ chính là do người chồng phải đi ra chiến trường xa xôi để chiến đấu.

3.4 Câu 4 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Hãy phân tích mối quan hệ giữa cảnh vật và tâm trạng của người chinh phụ trong phần cuối (từ dòng 9 đến dòng 20).

Dường như có một sự tương đồng giữa con người và cảnh vật trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, điều đó đã khiến cho nỗi buồn càng trở nên mãnh liệt và trở nên vô tận không hồi kết. Khung cảnh xung quanh của người chinh phục trở thành khung cảnh u buồn bởi cảnh được nhìn qua đôi mắt buồn rưng rưng nước mắt. Sự cô đơn buồn tủi của tâm hồn càng làm tăng thêm sự lạnh lẽo u ám của cảnh vật xung quanh. Cùng một giọt sương trên cành cây, cùng tiếng côn trùng trong đêm mưa gió, những cảnh vật ấy càng làm cháy lên biết bao giông bão nỗi buồn trong lòng của người chinh phục. Hoàn cảnh này, tâm trạng này chính nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​xưa. Thiên nhiên lạnh giá dường như hút lấy tâm hồn người chinh phục cô đơn bằng cái lạnh khủng khiếp cả về thể xác lẫn tâm hồn. Tám câu cuối là miêu tả độc đáo nhất về cảnh tình trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Sự hòa hợp của hoa và trăng càng làm cho lòng người khao khát hạnh phúc hôn nhân đôi lứa. Những động từ như dãi, lồng gợi lên  ngọn lửa gần gũi, yêu thương say đắm nhưng lại nhạy cảm và kín đáo của tình yêu đôi lứa.

3.5 Câu 5 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phân tích tác dụng các biện pháp tu từ, nhịp điệu của thể song thất lục bát trong văn bản Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

Các biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản Tinh cảnh lẻ loi của người chinh phụ:

- Gieo vần: Trong mỗi khổ thơ đều được sử dụng một vần trắc cùng với ba vần bằng. Ở câu sáu chỉ có vần chân, ba câu còn lại sẽ chứa cả vần chân và vần lưng trong mỗi câu.

- Cách ngắt nhịp: Tại các câu bảy có thể được ¾ hoặc theo cách chia 3/2/2. Còn hai câu sáu tám có thể ngắt nhịp 2/2/2 hoặc 3/3. Còn tại câu tám thì linh hoạt chia thành 4/4 hoặc ⅗.

- Các biện pháp tu từ:

  • Phép so sánh “sương” với “búa”,...

  • Phép ẩn dụ qua từ “nghìn vàng”,...

  • Hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng cao như “hoa”, “nguyệt”,...

  • Điệp từ: “non yên”, “trời”,...

  • Những từ láy xuất hiện liên tục: “thăm thẳm”, “đau đáu”,...

Việc sử dụng các biện pháp tu từ kết hợp với nhịp điệu có phần chậm rãi của thể thơ song thất lục bát đã khiến cho đoạn thơ trở nên sinh động hơn bao giờ hết. Sự tinh tế trong cách sử dụng nghệ thuật trong các câu thơ khiến cho người đọc có thể dễ dàng thấy được sự đau buồn, cô đơn và nỗi lòng của người chinh phụ khi chồng mình phải ra chiến trường chiến đấu mà không biết ngày nào mới có thể quay về.

3.6 Câu 6 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Đoạn trích gợi cho em suy nghĩ như thế nào về số phận những người phụ nữ trong cuộc chiến tranh phi nghĩa?

Qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, người đọc có thể thấy được sự cô độc, lẻ loi của những người phụ nữ có chồng ra chiến trường trong xã hội phong kiến cũ.

Qua đó ta càng có sự đồng cảm với con người thời đó cũng như thấy được sự phê phán của tác giả trước chế độ cũ. Tác giả đã tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến cho người người nhà nhà phải ly tán, họ phải hy sinh hạnh phúc của mình để chiến đấu cho mục đích vô nghĩa ác độc.

 

Trên đây VUIHOC đã cùng các bạn Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Để có thêm nhiều các kiến thức không chỉ với môn Văn và cả các môn học khác, các em hãy thường xuyên truy cập và website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-doc-hieu-tinh-canh-le-loi-cua-nguoi-chinh-phu-van-9-tap-1-canh-dieu-4282.html

 

Tovább

Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Bài viết dưới đây chính là Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh| Văn 9 tập 1 Cánh diều mà Vuihoc gửi đến các em. Hy vọng qua bài soạn này các em sẽ hiểu hơn về tác phẩm Phò giá về kinh và thấy được nhiệm vụ của thế hệ trẻ với nước nhà.

 

1. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh: Chuẩn bị

Đọc trước văn bản Phò giá về kinh; tìm hiểu thêm thông tin về Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. 

- Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải

+ Trần Quang Khải sinh ngày 24 tháng 8 năm 1241 và mất ngày 26 tháng 7 năm 1294.

+ Ông được Trần Thái Tông phong tước Chiêu Minh Vương từ khi còn nhỏ. Ông được học với Bảng nhãn Lê Văn Hưu - Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu.

+ Trần Quang Khải là một nhà quân sự, nhà chính trị và là tôn thất hoàng gia Đại Việt trong thời nhà Trần.

+ Ông giữ chức vụ cao nhất là Thừa tướng thời vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông. Trần Quang Khải đã phò tá vua, trông coi mọi việc của nước nhà.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh: Đọc hiểu 

Chú ý các chiến thắng lịch sử và việc sử dụng động từ mạnh

- Các chiến thắng lịch sử được nhắc đến trong bài thơ là trận Chương Dương và trận Hàm Tử.

- Các động từ được lựa chọn để sử dụng trong bài như “cướp”, “bắt”,... Những từ này đã thể hiện được khí thế hùng mạnh của quân dân ta trong tất cả các trận chiến đấu.

3. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh: Trả lời câu hỏi cuối bài 

3.1 Câu 1 trang 20 SGK Văn 9/1 Cánh diều 

Hãy trình bày bối cảnh ra đời văn bản Phò giá về kinh của Trần Quang Khải.

Văn bản Phò giá về kinh của Trần Quang Khải được viết vào khoảng thời gian sau chiến thắng Chương Dương Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285 khi ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và nhà vua Trần Nhân Tông về thành Thăng Long hay chính là thủ đô Hà Nội ngày nay.

3.2 Câu 2 trang 20 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Xác định đặc điểm thể loại của bài thơ (số chữ, số dòng, niêm, luật và cách hiệp vần ở bản phiên âm bài thơ…)

- Đặc điểm thể loại của bài thơ:

+ Mỗi bài thơ gồm bốn dòng thơ, mỗi dòng thơ gồm năm chữ.

+ Câu thơ thứ nhất, hai và bốn hoặc chỉ câu thơ thứ hai và thứ bốn sẽ hợp vần bằng chữ cuối câu.

3.3 Câu 3 trang 21 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Trình bày nội dung của hai dòng thơ đầu và hai dòng thơ cuối, từ đó cho biết chủ đề của bài thơ.

- Nội dung của hai dòng thơ đầu dành để nói về trận thắng trận quan trọng của toàn bộ quân sĩ và nhân dân nước ta.

- Nội dung của hai dòng thơ cuối chính là khát vọng của tất cả người con Việt Nam về một tương lai tươi sáng, một đất nước độc lập và hòa bình.

- Qua nội dung trên, chủ đề chính của bài thơ chính là hào khí ngút trời về quyết tâm chiến thắng kẻ thù cũng như khát khao một đất nước hòa bình, dân tộc phát triển.

3.4 Câu 4 trang 21 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Tìm hiểu cách ngắt nhịp của bài thơ ở bản phiên âm bài thơ. Nhịp điệu của các dòng thơ có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung bài thơ?

- Cách ngắt nhịp ⅔.

- Nhịp điệu ⅔ của các dòng thơ có tác dụng quan trọng trong việc thể hiện nội dung bài thơ. Qua nhịp thơ này đã nhấn mạnh được chiến công lẫy lừng của quân dân nhà Trần trong các trận chiến với giặc ngoại xâm. Chính nhờ vậy mà người đọc có thể thấy được khát vọng hòa bình cũng như tự nhận thấy trách nhiệm của mỗi người con Việt Nam trong công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước.

3.5 Câu 5 trang 21 SGK Văn 9/1 Cánh diều

So sánh bài thơ trên với bài thơ Sông núi nước Nam để chỉ ra sự tương đồng về nội dung và hình thức nghệ thuật giữa hai tác phẩm.

- Điểm tương đồng về tác phẩm Phò giá về kinh và Sông núi nước Nam:

  • Cùng thể thơ tứ tuyệt - gồm bốn câu thơ.

  • Nội dung của cả hai tác phẩm đề thể hiện được tình yêu nước, khát vọng hòa bình độc lập.

  • Ý thơ ngắn gọn mà xúc tích, nhấn mạnh nội dung tác giả muốn nói đến.

- Điểm khác biệt giữa tác phẩm Phò giá về kinh và Sông núi nước Nam:

  • Tác phẩm Phò giá về kinh: nói đến hai chiến công lừng lẫy của dân tộc thời nhà Trần là chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử. Chính nhờ các chiến công này đã khẳng định được sự mạnh mẽ của dân tộc, của đất nước.

Tác phẩm Sông núi nước Nam: là lời khẳng định hùng hồn về chủ quyền của dân tộc, của sự chiến thắng và quyết tâm vì chính nghĩa.

=> Hai bài thơ còn khác nhau về hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng sáng tác và thời gian sáng tác.

3.6 Câu 6 trang 21 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Bài thơ ra đời từ rất lâu nhưng nội dung vẫn có ý nghĩa với cuộc sống hiện nay như thế nào? Vì sao?

Bài thơ đã ra đời từ rất lâu nhưng nội dung vẫn có ý nghĩa quan trọng với cuộc sống hiện nay bởi đây chính là lời cổ vũ tinh thần, khẳng định lòng yêu nước cùng với ý chí chiến đấu đầy kiên cường. Đây chính là một khúc khải hoàn ca cho toàn bộ người dân Việt Nam chứ không phải dành riêng cho thời đại nào, vùng đất nào hay tầng lớp nào.

 

Qua bài viết trên, Vuihoc đã mang đến cho các em Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh Văn 9 tập 1 Cánh diều . Hy vọng qua bài soạn chi tiết này các em sẽ có thêm những gợi ý và cái nhìn đa chiều cho tác phẩm. Qua đó giúp các em hiểu tác phẩm một cách chi tiết hơn. Để bổ sung thêm nhiều kiến thức văn học với các chủ đề cũng như nội dung khác nhau, các em hãy thường xuyên theo dői các bài viết mới nhất trên website vuihoc.vn nhé.

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-doc-hieu-pho-gia-ve-kinh-van-9-tap-1-canh-dieu-4259.html

 

 

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek