Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

Soạn bài Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Dưới đây là phần Soạn bài Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Bài viết sẽ giúp các em nghe, nhận biết cũng như đánh giá được những ý kiến của những tác giả, nhà văn về một số tác phẩm nghệ thuật. Cùng VUIHOC tham khảo ngay bài viết chi tiết này nhé!

 

Soạn bài Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến Văn 9 tập 1 Cánh diều

1. Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, làm sáng tỏ về ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Bài văn tham khảo:

Xin chào thầy giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Lan, học sinh lớp 9A. Hôm nay em xin được trình bày ý kiến của mình về đề văn: Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, làm sáng tỏ về ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học nên đã có rất nhiều người yêu thích và sáng tác những tác phẩm văn thơ vịnh về tác phẩm Truyện Kiều. Trong đó có những câu thơ hết sức hay vịnh về nàng Kiều khi nàng ở lầu Ngưng Bích.

Một mình đối diện với mình

Mênh mông trăng gió vô tình thoảng qua

Mong manh như một nhành hoa

Ầm ầm tiếng sóng biết là về đâu?

Chưa đi đến thuở bạc đầu

Mà sao như đã nhuốm màu hư vô?

Đó là những câu thơ người ta vịnh về tâm trạng của nàng Kiều khi tác giả Nguyễn Du miêu tả về cảnh nàng bị Tú Bà giam lỏng tại lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm trong phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc" của tác phẩm "Truyện Kiều". Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã "thất thân" với hắn "đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ", nàng bị hắn đem bán vào lầu xanh. Biết mình bị lừa và phải làm một cái nghề dơ bẩn, Kiều uất ức và rút dao định tự vẫn. Tú Bà quá sợ hãi "Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma", nên nhanh trí, mụ liền vờ hứa hẹn đợi sau khi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào một nơi tử tế, rồi đưa Kiều giam lỏng tại lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện được âm mưu mới. Vì thế đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã dựng lên cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng vô cùng thủy chung và hiếu thảo của Thúy Kiều một mình bơ vơ ở nơi xứ người, đồng thời thông qua đoạn trích, người đọc có thể thấy được bút pháp "tả cảnh ngụ tình" độc đáo, đạt tới trình độ điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.

Trước hết là sáu câu thơ đầu tiên, tác giả nêu ra hoàn cảnh sống và nỗi niềm cô đơn và tội nghiệp của nàng Kiều. Ngay ở câu thơ mở đầu: "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân", Nguyễn Du đã nêu bật lên được cảnh ngộ vô cùng đáng thương của Kiều. "Khóa xuân" tức là khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về sự việc Kiều đang bị giam lỏng. Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều đã bị giam hãm, khóa kín ở trong cấm cung và không được giao tiếp với bất cứ ai bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù nhỏ giam lỏng cuộc đời của Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương và xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng.

Những câu thơ tiếp theo, tái hiện lại quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn và mênh mông được nhìn bằng con mắt đầy tâm trạng của Kiều:

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ hết sức đặc biệt: một mình, cô đơn và trơ trọi giữa một không gian mênh mông, rộng lớn: "bốn bề bát ngát". Đứng trên lầu mà ngước mắt lên trên trời cao, Kiều chỉ thấy được "non xa" và "tấm trăng gần". Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy một khoảng không trống vắng, xa xa thì là những con sóng lượn và những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như lấp lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng và lãng mạn nhưng lại đượm buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút nào bóng dáng sự sống của con người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả về cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng tìm kiếm một chút bóng dáng và sự sống ở xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng và tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó ở xung quanh mình. Sau này ở trong bài thơ "Tràng giang", Huy Cận cũng từng có những câu thơ:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Vì thế, ẩn sau ánh mắt nhìn "xa trông" như đang trông mong và ngóng chờ ấy chính là niềm mong mỏi, khát khao và đợi chờ một tương lai hạnh phúc ở phía trước nhưng trước không gian trống trải và hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ khiến cho Kiều trở nên thất vọng và cô đơn hơn mà thôi.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tính từ “bẽ bàng” gợi về sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ tới thân phận bé nhỏ và duyên phận của mình. Có lẽ, nàng cảm thấy vô cùng xấu hổ là vì đã bị Mã Giám Sinh lừa vào lầu xanh, còn nàng cảm thấy rất tủi thẹn là vì cảm thấy mình không còn xứng đáng với tình cảm mà Kim Trọng luôn mong chờ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi ra một vòng tuần hoàn thời gian khép kín và ẩn sau đó chính là sự cô đơn, đơn điệu và nhàm chán khi mà ở đó Kiều chỉ có một thân một mình phải đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn với mây trời, tối thì lại chỉ biết trò chuyện với cái bóng đèn. Vì thế tâm trạng của Kiều mới bị chia đôi thành hai ngả: “nửa tình - nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp tới bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp được tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.

Tóm lại: Dưới bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với những từ ngữ đậm tính tạo hình và biểu cảm, tác giả Nguyễn Du đã phác họa được khung cảnh lầu Ngưng Bích vô cùng rộng lớn, mênh mông và tuyệt nhiên không có bất cứ sự sống nào của con người. Đồng thời qua đó, tác giả còn cho thấy được tâm trạng vô cùng cô đơn, tủi hổ và bẽ bàng của Kiều khi bị giam lỏng ở trong lầu Ngưng Bích.

Trong nỗi cô đơn cố hữu đang bủa vây xung quanh mình, khi một mình Kiều phải bơ vơ ở dưới góc bể chân trời tại lầu Ngưng Bích thì nỗi nhớ gia đình và nỗi nhớ người yêu đến như một lẽ tất yếu, thực sự phù hợp với quy luật tâm lý của con người nơi xa quê. Tám câu thơ tiếp chính là nỗi niềm thương nhớ Kim Trọng cùng với cha mẹ của Kiều. Đến đây, chúng ta thấy được cách sử dụng từ rất đắc địa và khéo léo của nhà thơ. Để diễn tả về nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim, tác giả đã sử dụng động từ “tưởng”. Tưởng là nhớ đến mức hình dung ra Kim Trọng đang ở ngay trước mắt trò chuyện với Kiều. Kiều nhớ về đêm trăng thề nguyện, hai người cùng nhau uống chén rượu thủy chung, hứa sẽ ở bên nhau trọn đời. Nhưng bây giờ nàng đang bị lạc lőng ở một nơi đất khách, nên nàng tưởng rằng Kim Trọng đang đợi tin tức của mình, còn mình thì lại bặt vô âm tín:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Rồi nàng băn khoăn tự hỏi:

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Câu thơ có đến hai cách hiểu: Cách hiểu thứ nhất: Câu thơ như một lời khẳng định về tấm lòng son sắt và thủy chung của Kiều dành cho Kim Trọng dù trên bước đường đời có phải trải qua biết bao sóng gió thì tấm lòng son đó mãi vẹn nguyên. Cách hiểu thứ hai: câu thơ như một lời tự vấn lương tâm của Kiều và Kiều cho rằng tấm lòng son sắt của mình dành cho Kim Trọng đã bị hoen ố và đã bị dập vùi khi Kiều đã thất thân với Mã Giám Sinh cho nên không biết bao giờ mới có thể gột rửa cho sạch được vết nhơ nhuốc đó. Như vậy, trong nỗi nhớ chàng Kim, Thúy Kiều không chỉ bộc lộ về nỗi niềm mong ngóng khắc khoải mà còn bộc lộ cả về nỗi đau đớn, cùng cực và tủi hổ đến xé tâm can. Qua đó cho thấy được một tấm lòng thủy chung và son sắt của Kiều đối với Kim Trọng.

Sau nỗi nhớ người yêu thì Kiều tiếp tục nhớ đến cha mẹ - người thân yêu ruột thịt của chính mình:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Nếu như khi diễn tả nỗi nhớ chàng Kim của Kiều, Nguyễn Du sử dụng động từ "tưởng" thì khi diễn tả về tấm lòng hiếu lễ với cha mẹ của Kiều, tác giả lại sử dụng đến tính từ “Xót”. Xót nghĩa là thương hay thương tới mức xót xa trong lòng. Không xót xa sao được khi mà một đứa con hiếu thảo như Kiều lại cứ nghĩ về hình ảnh cha mẹ đang tựa cửa ngóng ngóng chờ con trở về, còn con thì vẫn bóng chim tăm cá và chẳng thấy đâu. Nàng còn lo lắng cho cha mẹ khi mà đã tuổi già sức yếu không biết có người chăm sóc cho không, hai em có làm tốt được nghĩa vụ và trách nhiệm của phận làm con hay không.

Cụm từ “cách mấy nắng mưa” mang tính chất gợi tả về thời gian, cho thấy được sự xa cách của biết bao nhiêu ngày mưa nắng nhưng cũng đồng thời gợi đến khoảng cách về không gian địa lí và sự xa xôi cách trở giữa nàng với cha mẹ biết bao giờ mới được gặp lại để làm tròn bổn phận của một người con. Qua tâm trạng xót xa, buồn tủi và lo lắng khi nhớ đến cha mẹ, gia đình của Kiều, chúng ta thấy được một tấm lòng thảo thơm và hiếu nghĩa của Kiều dành cho cha mẹ là vô cùng lớn lao, cao cả và thiêng liêng.

Tuy nhiên, một nàng Kiều hiếu thảo với cha mẹ như vậy, tại sao Kiều lại nhớ đến người yêu trước, sau đó mới nhớ về cha mẹ của mình. Có được điều ấy là một dụng ý nghệ thuật hết sức độc đáo của tác giả. Bởi hình ảnh của ánh trăng đang bắt đầu nhô lên ở nơi cửa ải xa xa kia khiến cho Kiều tức cảnh mà sinh tình, nhớ đến đêm trăng thanh thề nguyền giữa mình với Kim Trọng. Hơn thế, Kiều lại còn là một cô gái trẻ, Kim Trọng là mối tình đầu tiên của nàng, mà mối tình đầu của một cô gái bao giờ cũng vô cùng mãnh liệt. Chính vì thế, Kiều luôn luôn nhớ đến Kim Trọng, hình ảnh của Kim Trọng luôn thường trực ở trong lòng Kiều.

Đặc biệt, Kiều đã chịu bán mình để chuộc cha và em, giúp cho gia đình thoát khỏi cơn tai biến thế là coi như Kiều đã tạm làm tròn được bổn phận làm con đối với bậc sinh thanh; còn với Kim Trọng thì Kiều vẫn cảm thấy mình là một kẻ quá phụ tình, không còn trinh tiết đồng nghĩa với việc không còn xứng đáng với chàng Kim nữa. Đó là sự cắn rứt và đang dày vò ở trong trái tim nàng. Chính những lí do ấy mà Nguyễn Du đã miêu tả về nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim trước. Điều ấy chứng tỏ Nguyễn Du là một thi sĩ vô cùng am hiểu diễn biến tâm lí của nhân vật. Sự am hiểu tâm lí đó xuất phát từ tấm lòng yêu thương và trân trọng, ngợi ca con người của nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa.

Bài thơ khép lại với tám câu thơ cuối thể hiện về tâm trạng đau buồn và lo âu của Kiều thông qua cách nhìn cảnh vật.

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Điệp ngữ “buồn trông” được lặp đi lặp lại đến bốn lần. Đây là điệp ngữ liên hoàn và đồng thời cũng chính là điệp khúc của tâm trạng. Kiều buồn cho nên Kiều mới trông cảnh vật, khác với những đoạn trước, Kiều trông mới cảm thấy buồn. Ở đây, vì buồn cho nên trông, mà càng trông thì Kiều lại càng cảm thấy buồn. Nỗi buồn cứ thế điệp đi điệp lại và dâng lên thành lớp lớp sóng trào, cứ cuộn xoáy vào trong tâm khảm của Kiều mà trở thành một gánh nặng tâm tư.

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Chiều hôm chính là khoảng thời gian của buổi chiều hoàng hôn, khi mà mặt trời đã dần dần ngả về phía tây, bóng tối cũng bắt đầu xâm lấn. Xa xa chính là hình ảnh của một chiếc thuyền nhỏ bé và cô đơn thoát ẩn, nó thoát hiện thấp thoáng ở trên cửa biển; một cánh hoa đang trôi bất định ở trên dòng nước mà không biết mình đi về đâu. Hình ảnh của chiếc thuyền và cánh hoa được đặt trong thế tương phản đối lập với vũ trụ không cùng của trời đất mênh mang càng tô đậm thêm sự nhỏ bé, đáng thương, đơn độc và tội nghiệp. Đây chính là một hình ảnh ẩn dụ cho thân phận của Kiều lênh đênh và chìm nổi giữa dòng đời mà không biết sẽ trôi dạt về đâu.

Và đứng trước một không gian rộng lớn, bao la của trời đất, của buổi chiều hoàng hôn sắp tắt, nỗi nhớ nhà và nhớ người thân đến như một lẽ tất yếu ở trong lòng Kiều. Nhưng trong tình cảnh “bốn bề góc bể bơ vơ” thì Kiều biết bao giờ mới có thể được sum họp và đoàn viên cùng với gia đình, người yêu. Vì thế câu hỏi tu từ cứ thế réo rắt và khắc khoải trong lòng của Kiều, dấy lên niềm khao khát một ngày được trở về nhà, trở về quê hương, về nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Ngước mắt trông về phía xa của cửa biển thì Kiều chỉ càng cảm thấy rộng trống, cơ đơn và buồn tủi. Kiều quay trở về nhìn xuống dưới mặt đất quanh mình để tìm kiếm những sự sống của cảnh vật xung quanh thì lại chỉ thấy được những đám cỏ xanh héo úa và lụi tàn. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” là một hình ảnh nhân hóa, biểu hiện về tâm trạng của con người. Lòng người buồn cho nên nhìn đâu cũng cảm thấy buồn; nỗi buồn của Kiều như đang thấm vào cảnh vật khiến cho cảnh vật cũng bị nhuốm màu tâm trạng. Trong văn học từ xưa đến nay, màu sắc xanh thường khiến cho chúng ta nghĩ đến màu của sự sống và của sự sinh sôi bất diệt. Nhưng cũng có trường hợp, màu xanh có khi lại trở thành màu sắc của bi kịch con người.

Bài thơ “Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn đã diễn tả về nỗi nhớ của người chinh phụ đối với người chồng của mình ở nơi biên ải thông qua màu xanh ngắt của cỏ lá:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

Như vậy, màu xanh ngắt và xanh xanh của cỏ lá đã trở thành màu sắc của sự xa cách, sự li biệt và nhạt nhòa. Nay từ “xanh xanh” lại xuất hiện ở trong câu thơ của tác giả Nguyễn Du nên màu sắc đó biểu trưng cho sự nhạt nhòa, sự vô vọng, chán nản của Kiều trước một khung cảnh rất thiếu vắng sự sống, cô đơn lại thật tẻ nhạt.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nếu như những bức tranh thiên nhiên ở bên trên đều được tái hiện trong trạng thái tĩnh thì khép lại bài thơ, bức tranh thiên nhiên đã được miêu tả trong trạng thái động. Đó là âm thanh dữ dội của gió và của sóng; gió khiến cho mặt biển tung lên những con sóng ồ ạt và đập vào bờ mà phát ra tiếng kêu. Nhưng quan trọng, tiếng sóng đó không đơn thuần là những con sóng thực ở ngoài biển khơi mà đó còn là con sóng lòng trong tâm trạng.

Điệp khúc “buồn trông” ở những câu thơ phía trên kết đọng và tích tụ rồi dồn đẩy xuống câu thơ cuối cùng khiến cho nỗi buồn ngày càng trở nên chồng chất hơn như lớp lớp sóng trào. Đồng thời, tiếng sóng “ầm ầm” dữ dội đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời phong ba bão táp đã và đang đổ ập xuống cuộc đời Kiều, đổ ập xuống đôi vai vốn gầy yếu của một cô gái trẻ đáng thương và tội nghiệp. Vì thế mà lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn cảm thấy lo lắng và sợ hãi như đang bị rơi xuống vực thẳm một cách bất lực.

Tóm lại: Tám câu thơ cuối, Nguyễn Du đã sử dụng vô cùng tài tình bút pháp “tả cảnh ngụ tình” của văn học cổ điển nhằm diễn tả tâm trạng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” của Kiều khi nàng bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. Mỗi câu thơ là một bức tranh thực cảnh cũng chính là thực tình của một con người mang trong mình một nỗi buồn đau chồng chất. Đó chính là nỗi đau đớn, lo lắng, xót xa và khắc khoải của một kiếp má đào, vô định, trôi nổi, mong manh và bế tắc không biết sẽ đi về nơi đâu. Vì thế, dù cho nàng “Thông minh vốn sẵn tính trời” nhưng đang phải đứng trước sự tuyệt vọng và yếu đuối của bản thân, Kiều đã bị Sở Khanh lừa gạt để rồi dấn thân vào một cuộc đời chất chứa đầy sóng gió và truân chuyên “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rő nét sắc thái của ngôn ngữ Nam bộ. Hãy làm rő ý kiến đó qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.

Bài văn tham khảo:

Xin chào cô giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Lan, học sinh lớp 9C, trường THCS An Thượng, hôm nay em xin được trình bày ý kiến của mình về đề văn: Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rő nét sắc thái của ngôn ngữ Nam bộ. Hãy làm rő ý kiến ấy thông qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn và nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không hề có sự chau chuốt và cầu kỳ về câu từ mà lại vô cùng mộc mạc và dân dã gắn liền với đời sống của những con người Nam Bộ. Vì thế trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du rất nổi tiếng với kiệt tác Truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả ở trong nước và nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà và văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào trong đời sống, trở thành một phần đời sống của những người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc giống như những bài đồng dao dân gian. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng vì chính chất mộc mạc và gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng của thơ văn trong tác phẩm này.

“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn trong tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa và vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hoặc e ngại những tai họa có thể đến mà hết lòng ra tay để cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp ở trong phẩm chất cũng như tâm hồn của nhân vật Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ chính tấm lòng mà không hề tính toán tới việc thiệt hơn hay báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng rất đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được Lục Vân Tiên cứu giúp, nàng đã thể hiện những phẩm chất vô cùng tốt đẹp như trọng ân nghĩa và hiền thục đoan trang và nàng còn là một người con có hiếu.

Mở đầu đoạn trích, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách rất chân thực và sống động những hành động của nhân vật Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay để diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó được làm tổn hại hay gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động rất đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý và đáng trân trọng.

“Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

Câu thơ miêu tả về những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp đang hoành hành và gây họa cho người dân, bản tính cương trực và căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc cho Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ xảy ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ hay tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng đã lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy để bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống cho nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn một cành cây bên đường để làm vũ khí để diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa ở trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách vô cùng cương trực và thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.

Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy sự cao đẹp của chàng, sống là phải hướng tới bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang tới những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn và “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó được xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một chàng trai có tình thương với con người, mang trong mình một tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai vô cùng khỏe mạnh và tài giỏi, điều này được thể hiện ra ở trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:

“Vân Tiên tả đột hữu xông

.............

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”

Những động tác của Vân Tiên đều vô cùng dứt khoát và nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, những hành động anh hùng ấy được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh của người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp đã bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn mà bỏ lại gươm giáo để tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng đó chính là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy mà “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt vô cùng thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui và làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp này Lục Vân Tiên tuyệt đối không một chút khoan nhượng, lời nói lẫn hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên hết sức dịu dàng và phải phép:

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong

Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”

Không chỉ ra tay cứu giúp những người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm tới họ, thể hiện ngay ở lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp cho người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết được tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng chính là không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa họ nữa. Và phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi mà chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức là Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước chân ra khỏi kiệu để cúi lạy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất định không chịu nhận:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái ta là phận trai”

Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể cảm nhận được Lục Vân Tiên là một con người rất trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép ở trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài phải cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt đó ảnh hưởng tới phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến ngày xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có một khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động quá đỗi thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện rằng chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói đó trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đó đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ là vì lễ tiết mà chàng cũng thực sự không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng chỉ xuất phát từ tấm lòng chứ không vì mục đích vụ lợi gì cả “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng khiến cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn bao giờ hết.

“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là việc tất yếu, và nếu làm ơn mà cứ trông ngóng việc trả ơn thì không phải là người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" đã khắc họa vô cùng chân thực và sống động hình ảnh của người anh hùng hiệp nghĩa Lục Vân Tiên, ở chàng hiện ra với biết bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp, không chỉ là con người nhân nghĩa, thấy việc ác là sẽ ra tay diệt trừ, bảo vệ được sự bình yên cho con người mà chàng còn là một con người có học thức, biết trọng những lễ nghi và khuôn phép. Và ở chàng trai ấy ta cũng có thể thấy được một quan niệm sống vô cùng tốt đẹp, đó chính là quan niệm về việc nghĩa và về anh hùng. Khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên cũng là cách mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng trong đời.

 

 

Trên đây là hai bài văn mẫu đại diện cho hai đề bài thuộc phần Soạn bài Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Hy vọng rằng, khi các em tham khảo bài soạn này, các em có thể hiểu cách mà tác giả muốn triển khai, cũng như đánh giá được tính thuyết phục của một ý kiến bình luận văn học bất kỳ. Ngoài bài soạn này ra, nếu các em mong muốn tham khảo thêm những bài soạn văn khác hay những bài soạn khác của các môn học khác thì cần nhanh tay truy cập vào website chính thức của VUIHOC chính là vuihoc.vn để có thể đăng ký khoá học cho mình một cách nhanh chóng và được giải đáp thắc mắc trực tiếp từ thầy cô giáo với trình độ chuyên môn cao và tràn đầy nhiệt huyết của VUIHOC nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-nghe-va-nhan-biet-tinh-thuyet-phuc-cua-mot-kien-van-9-tap-1-canh-dieu-4290.html

 

Tovább

Soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Trong bài viết này, VUIHOC sẽ hướng dẫn các bạn cách để soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học cùng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Cánh diều 9 tập 1 để nắm rő được nội dung và ý nghĩa của bài học, cùng theo dői nhé!

Soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học

1. Phân tích đoạn thơ trích từ Truyện Kiều (Nguyễn Du)

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc và là một danh nhân lỗi lạc trong nền văn hóa thế giới, được biết đến nhiều với câu nói để đời: “con mắt nhìn thấu cả sáu cői, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Ông đã sáng tác cho văn học rất nhiều tác phẩm bất hủ, nhưng nổi bật trong đó nhất vẫn là “Truyện Kiều”. Tác phẩm này đã đưa tên tuổi của Nguyễn Du trở thành một huyền thoại trong văn học Việt Nam, không chỉ bởi ở trong đó chứa đựng một cốt truyện hấp dẫn mà còn bởi ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh phong phú và những biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Trong “Truyện Kiều”, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ nổi bật nhất và đậm chất nhất, diễn tả tinh tế và sâu sắc lên những nét tâm trạng của Thúy Kiều khi nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, một nơi hoàn toàn biệt lập và hoang vắng, tách biệt so với thế giới bên ngoài. Qua đoạn thơ này, người đọc có thể cảm nhận được nỗi cô đơn, buồn tủi và những lo lắng, sợ hãi của Thúy Kiều khi nghĩ về một tương lai bất định, không điểm đến của mình. Nguyễn Du đã khéo léo khi những hình ảnh thiên nhiên hoang vắng, lạnh lẽo để miêu tả nỗi lòng cô đơn của Thúy Kiều, tạo nên một bức tranh tâm trạng đầy cảm xúc và sâu sắc, làm rung động lòng người.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần hai của tác phẩm "Truyện Kiều" mang tên “Gia biến và lưu lạc”. Đây là khúc thơ tâm tình mang đầy nỗi xúc động, đau thương của Thúy Kiều khi lần đầu tiên nàng bước chân ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ chính là một bản đàn viết ra với nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi và cũng là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo mà nàng dành cho người yêu và cha mẹ. Nguyễn Du đã khéo léo dùng những cảnh vật xung quanh để phản ánh những cảm xúc sâu kín trong lòng Kiều, tạo nên một bức tranh tâm trạng vừa đẹp đẽ nhưng cũng lại vô cùng đau thương. Qua đoạn trích này, người đọc cảm nhận được nỗi lòng và nỗi đau đớn về số phận của Thúy Kiều trước những biến cố cuộc đời.

Nhà thơ đã miêu tả hình ảnh về một bức tranh tâm cảnh, tức là cảm xúc chủ đạo trong thơ. Tuy nhiên, lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu trong bài thơ khá khoa học và chặt chẽ. Bài thơ được tác giả chia thành ba phần rő ràng. Phần đầu tiên miêu tả quang cảnh ở lầu Ngưng Bích, nơi mà chứa đựng đầy cảm giác cô đơn và trống vắng. Phần thứ hai tập trung vào nỗi nhớ nhung, sự cô đơn và sầu tủi của nhân vật chính. Trong trạng thái đó, nàng nhớ về những người thân yêu, cụ thể là Kim Trọng và cha mẹ. Những kỷ niệm ngọt ngào và những tình cảm sâu đậm mà nàng dành cho Kim Trọng, cùng với lòng hiếu thảo và luôn lo lắng cho cha mẹ, càng làm cho nỗi buồn của nàng thêm phần sâu sắc. Cuối cùng, phần thứ ba là tâm trạng đau khổ và lo lắng khi nàng nghĩ đến tương lai mịt mờ phía trước của nàng. Nàng dự cảm về những tai ương và sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời mình, khiến tâm trạng nàng lại thêm phần đau đớn và bi quan. Tất cả những phần trên đều được kết nối với nhau một cách logic và mạch lạc, cho thấy sự tài tình của Nguyễn Du trong việc xây dựng một bức tranh cảm xúc phức tạp nhưng lại rất khoa học và chặt chẽ. Những cảm xúc trong thơ không chỉ được thể hiện qua ngôn từ mà còn qua cấu trúc viết thơ, từ đó tạo nên một tác phẩm vừa sâu lắng về mặt tình cảm nhưng cũng lại vừa tinh tế về mặt nghệ thuật.

Trong những vần thơ đầu tiên, quang cảnh được miêu tả mang đến cảm giác hoang vu, vắng lặng và buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nàng nhìn ra xa thấy những dãy núi chập chùng, tạo nên cảm giác xa xôi, cách biệt. Khi nhìn lên bầu trời, nàng chỉ thấy vầng trăng cô đơn, lẻ loi giữa không gian mênh mông. Khung cảnh xung quanh nàng không gì khác ngoài những cồn cát bay mịt mù trong gió, tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa rộng lớn nhưng cũng vừa vô cùng lạnh lẽo. Tất cả những yếu tố này hòa quyện lại, kết hợp với nhau đã góp phần tô đậm thêm nỗi quạnh vắng và cô đơn đang xâm chiếm tâm hồn nàng. Bức tranh thiên nhiên không chỉ là miêu tả cảnh vật mà còn là biểu tượng cho tâm trạng của nàng: một tâm hồn đang chịu đựng nỗi buồn và sự cô đơn mà không một ai thấu hiểu.

Những hình ảnh này, từ dãy núi xa xa đến vầng trăng cô độc và cồn cát mịt mù, tất cả đều phản ánh một cách tinh tế nỗi lòng nàng, làm cho cảm giác buồn thảm trở nên sâu sắc hơn. Mỗi chi tiết trong khung cảnh đều góp phần thể hiện sự cô quạnh và nỗi đau tinh thần của nàng, khiến người đọc cảm nhận được sự trống trải và niềm đau của một tâm hồn lẻ loi trong thế giới rộng lớn. Thơ ca không chỉ là những câu từ, mà qua từng hình ảnh, từng chi tiết, tác giả đã truyền tải một cách mạnh mẽ và đầy cảm xúc những nỗi niềm sâu kín của nhân vật chính. Sự hoang vu, vắng lặng của thiên nhiên chính là tấm gương phản chiếu chân thực nhất cho tâm trạng của nàng, tạo nên một bức tranh thiên nhiên, tâm trạng đầy cảm xúc và sâu sắc.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Cảnh vật buồn khiến cho lòng người càng thêm lẻ loi, hiu quạnh, hay chính là lòng người vốn đã nặng trĩu đầy những ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa và thấm đẫm vào cảnh vật. Mỗi cảnh vật, từ bầu trời âm u, cây cối úa vàng, đến con đường vắng vẻ, đều phản chiếu những nỗi tâm tư trong lòng của con người. Cảnh và tình hòa quyện với nhau, tạo nên một bức tranh buồn đến nao lòng. Chính vì lòng người mang đầy những nỗi niềm nên mỗi hình ảnh của cảnh vật lại càng trở nên buồn bã hơn, khiến cho người ta càng có những cảm nhận sâu sắc hơn về sự cô đơn, buồn tẻ trong cuộc sống:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một từ láy "bẽ bàng" đã diễn tả thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Từ này gói gọn nhiều cảm xúc phức tạp: buồn tủi, ngượng ngùng, ê chề, cay đắng và xót xa. Trong hoàn cảnh của nàng, "bẽ bàng" không chỉ là nỗi đau riêng tư của mình nàng nữa mà còn là sự xấu hổ trước xã hội và sự bất lực trước số phận. Và khi tâm trạng ấy đối diện với cảnh vật ngoài kia, lại càng làm cho cői lòng nàng thêm đau thắt. Thiên nhiên khi đó không chỉ còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như trở thành có hồn. Nó chính là một tấm gương phản chiếu cho nỗi tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều. Khi nàng nhìn ra khung cảnh xung quanh, mỗi chi tiết của thiên nhiên như mang theo một phần cảm xúc của nàng. Những dãy núi xa xa, dòng sông lặng lẽ, hay những cơn gió hiu hắt đều trở nên có hồn, thể hiện sự cô đơn và sầu muộn trong lòng nàng. Sự hòa quyện giữa tâm trạng con người và cảnh vật tạo nên một bức tranh thiên nhiên thấm đượm nỗi buồn, sâu lắng. Mỗi hình ảnh, mỗi màu sắc của thiên nhiên đều như muốn kể lại câu chuyện đau lòng của nàng Kiều. Cảnh và tình hòa quyện vào với nhau, tạo nên một không gian đậm chất bi kịch. Chính tâm trạng nàng đã thổi hồn vào cảnh vật, khiến mọi thứ xung quanh trở nên sống động và đầy cảm xúc. Cảnh vật như hòa vào đồng cảm và chia sẻ nỗi niềm với nàng, làm cho người đọc có những cảm nhận sâu sắc hơn về nỗi đau và sự cô đơn mà nàng đang phải chịu đựng. Tất cả những yếu tố này đã tạo nên một bức tranh cảm xúc đầy phong phú và sâu sắc trong lòng người đọc.

Từ trong nỗi cô đơn và phiền muộn, nàng hướng lòng mình về quê hương, gia đình và những người thân yêu. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng đã bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nên nàng phải trao lại chữ duyên với Kim Trọng cho em gái mình. Vì vậy, trong lòng nàng còn chứa đựng nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng. Sự hy sinh và nỗi đau này khiến nàng càng thêm đau khổ và nhớ nhung người mình yêu, tạo nên một tâm trạng vừa chân thật nhưng cũng vừa bi ai:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Nhịp thơ như là nhịp trái tim của một tình yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào dâng khiến cho hình ảnh đêm thề nguyện, đính ước hiện ra một cách chân thật, sống động ở ngay trước mắt nàng. Đó chính là  hiệu quả của việc đã biết cách diễn đạt vượt trội của từ "tưởng" mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ da diết của Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi còn đang cùng thề nguyện ước hẹn với nhau dưới ánh trăng, vầng trăng thì vẫn còn đó nhưng giờ đây đã đôi người đôi ngả.

Nàng tưởng tượng Kim Trọng vẫn ngày ngóng đêm trông tin tức về nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc ở một nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho Kim Trọng phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ lòng nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt. Những kỷ niệm ngọt ngào của những ngày xưa bên nhau cứ trào dâng trong tâm trí nàng, làm cho nỗi nhớ của nàng ngày càng thêm sâu nặng. Nàng nhớ về những câu ước hẹn dưới vầng trăng, những lời thề nguyện gần mãi bên nhau, nhưng giờ đây tất cả chỉ còn là quá khứ. Hình ảnh Kim Trọng ngày nhớ đêm mong ngóng chờ tin tức của nàng hiện lên rő ràng trong đầu nàng, làm cho trái tim nàng càng thêm đau thắt. Nàng thấy rő sự ở đó chứa đựng đau khổ và tuyệt vọng của chàng, và điều đó khiến nàng thêm phần đau đớn.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

Tâm trạng nàng cứ thế trôi theo dòng ký ức và trí tưởng tượng, cảm giác bơ vơ, lạc lőng ở nơi đất khách quê người làm cho lòng nàng thêm phần tủi thân. Tấm lòng son sắt và chung thủy của nàng dành cho Kim Trọng chưa từng phút nào phai nhạt, nhưng chính sự xa cách và những khó khăn mà nàng đang phải đối mặt làm cho nàng không khỏi đau khổ và cảm thấy dằn vặt. Trong những lúc ấy, nàng thường ngồi một mình trong căn phòng bé nhỏ, ánh mắt xa xăm nhìn ra cửa sổ, hướng ánh mắt ấy về phía có những cánh chim bay lượn như đang chở theo những nỗi niềm của nàng.

Mỗi khi hoàng hôn buông xuống, lòng nàng lại càng thêm nặng trĩu, nỗi nhớ quê hương, nhớ người yêu lại càng thêm da diết. Đôi khi nàng tự hỏi liệu chàng có nhớ đến nàng không, có nhớ đến những kỷ niệm mà hai người từng có với nhau không. Nàng cảm thấy như bản thân đang sống trong một thế giới hoàn toàn khác, nơi mà mọi thứ đều xa lạ và lạc lőng. Sự cô đơn ấy cứ thế gặm nhấm tâm hồn nàng từng ngày, khiến nàng cảm thấy mình như một chiếc lá rơi, bị cuốn theo dòng đời mà không biết mình sẽ trôi về đâu. Nàng chỉ mong rằng, một ngày nào đó, mọi đau khổ sẽ qua đi và nàng có thể tìm lại được niềm vui, hạnh phúc đã từng có bên. Nhưng nàng biết rằng, điều đó không dễ dàng, bởi lẽ những vết thương lòng khó mà lành lại, và những ký ức đẹp đẽ kia sẽ có thể chỉ mãi mãi ở lại trong trái tim nàng.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, lòng nàng càng đau xót hơn khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già ngóng trông tin con mòn mỏi từng ngày. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai đem chăn ấm tới cho cha mẹ nằm. Từng đêm, nàng vẫn thường thức trắng, tưởng tượng cảnh cha mẹ già yếu ngóng trông, lòng nàng càng thêm đau đớn và day dứt. Trong những giấc mơ chập chờn, hình ảnh cha mẹ già nua vẫn luôn hiện hữu, tất cả như muốn nói với nàng rằng hãy cố gắng vượt qua khó khăn để trở về. Những lúc buồn bã và cô đơn, nàng thường lấy lá thư cũ của cha mẹ ra đọc, để tìm chút an ủi và động lực tiếp tục sống ở nơi đất khách. Nàng hy vọng rằng, một ngày nào đó, sẽ được trở về và có thể báo hiếu chăm sóc và yêu thương cha mẹ như nàng đã từng mong muốn. 

 

Nỗi nhớ đầy vơi nàng để cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của hiện tại. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn sâu sắc. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của sự đau khổ. Nhớ đến cha mẹ, lòng nàng như bị xé rách bởi nỗi đau của sự xa cách. Nhìn cảnh vật xung quanh, từng cánh hoa, ngọn cỏ, tất cả đều gợi nhớ về quá khứ làm nàng không khỏi xót xa. Nỗi nhớ người yêu cùng những kỷ niệm đã qua càng khiến nàng thêm sầu muộn. Mỗi lần nghĩ đến những khó khăn và thử thách đang chờ đợi, nàng cảm thấy mình như bị nhấn chìm sâu hơn vào vực thẳm đau khổ không tìm thấy lối thoát. Nàng biết kí ức không dễ dàng quên đi được, bởi tình yêu và nỗi nhớ vẫn mãi đong đầy, không bao giờ phai nhạt trong tim.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bằng cách sử dụng lối điệp ngữ liên hoàn "Buồn trông", khổ thơ cuối như một bức tranh buồn hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng mắt ra xa khơi, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của hình bóng ai đó nhưng chỉ "thấp thoáng" mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, gập ghềnh, nhiều sóng gió, ba đào.

Cùng với nỗi buồn ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới "sa", mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị làn sóng đưa đẩy dồn dập, không biết sẽ rồi bản thân sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo dòng nước dữ dội hay là hình ảnh người con gái bị cuộc đời đánh ngã khi còn quá trẻ. Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh "rầu rầu" ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến "kêu quanh ghế ngồi". Tiếng sóng gầm lên "ầm ầm" như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn vùi dập nàng xuống tận đáy sâu của đau khổ, tuyệt vọng.

Trong khoảnh khắc đó, nàng cảm thấy mọi thứ xung quanh mình đều trở nên xa lạ và đáng sợ. Sự cô đơn, lạc lőng giữa cảnh vật rộng lớn khiến nàng không khỏi bàng hoàng, lo sợ. Bóng tối của buổi chiều tà dần bao phủ, như ám chỉ một tương lai mờ mịt đang chờ đợi nàng phía trước. Nỗi lo sợ về những điều chưa biết, những khó khăn và thử thách đang chực chờ, làm tâm hồn nàng thêm phần xáo trộn và bất an. Mỗi tiếng sóng vỗ, mỗi ngọn gió thổi qua đều như muốn cuốn trôi đi những hy vọng mong manh còn sót lại trong lòng nàng. Những hình ảnh buồn bã và u ám ấy không chỉ phản ánh cảnh vật xung quanh mà còn là tâm trạng rối bời, lo lắng của nàng dự cảm về tương lai. Dù đau khổ, tuyệt vọng, nàng vẫn phải đối mặt với thực tại và tìm cách vượt qua. Và dù có bị nhấn chìm hay cuốn trôi, nàng vẫn mong tìm thấy một nơi nào đó để bám víu, để hy vọng, để sống tiếp. Trong đáy sâu của tuyệt vọng, nàng vẫn hy vọng sẽ tìm thấy cho mình ánh sáng của niềm tin và sự kiên cường để vượt qua tất cả.

Mỗi vần thơ là một giọt cảm xúc nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận người con gái tài hoa nhưng lại bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng khi sử dụng các nghệ thuật trong ngôn ngữ: tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm). Nguyễn Du đã khắc họa rő cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Nguyễn Du không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn kết hợp vào đó tâm trạng và cảm xúc của Thúy Kiều.

Những hình ảnh thiên nhiên hiện ra như cánh buồm thấp thoáng, ngọn nước sa, cánh hoa rụng và nội cỏ rầu rầu đều mang đậm nỗi buồn man mác, chứa đầy nỗi u uất. Tiếng sóng ầm ầm như tiếng lòng Thúy Kiều vang lên da diết trong sự cô đơn và tuyệt vọng. Sự lặp lại của các từ láy càng làm tăng thêm cảm giác buồn bã và lạc lőng của nàng. Tài năng của Nguyễn Du không chỉ nằm ở cách tả cảnh mà còn đặc biệt hơn ở chỗ ông đã dùng cảnh để tả tình, dùng thiên nhiên để nói lên những uẩn khúc trong tâm hồn Thúy Kiều. Những nỗi buồn, lo lắng và bế tắc của nàng như được hiện lên rő nét qua từng câu thơ, khiến người đọc không khỏi cảm thương và xót xa cho số phận của nàng. Qua đó, Nguyễn Du đã làm nổi bật số phận bi kịch và nỗi đau đớn của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh, sống trong cảnh đời đầy sóng gió, bất hạnh và thử thách.

Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi trong mình những ấn tượng đặc biệt về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ lên bởi một tài năng, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích trên đã góp phần vô cùng lớn để làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.

2. Phân tích đoạn thơ trích từ Truyện Lục Vân Tiên  của nhà văn học Nguyễn Đình Chiểu

Trong lịch sử văn học của Việt Nam, nếu tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là đỉnh cao, là một kiệt tác trong thể loại truyện thơ Nôm, thì Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu lại được là một ngôi sao sáng, mang trong mình những giá trị nhân văn, đưa con người đến với ý nghĩa của chữ “Thiện”, dựa trên cách sắp xếp cốt truyện mang tính kinh điển, nổi bật trong văn học dân gian Á Đông. Nhân vật chính không chỉ hội tụ tài năng, đầy đủ phẩm chất tốt, mà còn vượt qua khó khăn nhờ nỗ lực bản thân và sự giúp đỡ từ những nhân vật phụ, cuối cùng là một kết thúc có hậu cho nhân vật chính và sự trừng phạt cho kẻ ác. Từ đó rút ra một bài học vô cùng sâu sắc về cuộc sống, cách mà con người nên đối mặt và đồng cảm với nhau, cùng nhau sẻ chia và sự không thay đổi của chân lý, ở hiền gặp lành.

Tác giả Nguyễn Đình Chiểu trải qua cuộc đời đầy bi ai, bị mù khi còn trẻ đến mất mát và bội ước trong tình riêng. Cuộc đời của ông gắn liền với những thăng trầm trong quá trình xây dựng của đất nước. Tuy vậy nhưng ông không đầu hàng số phận, mà đổi lại, ông còn thể hiện nghị lực phi thường, tham gia hoạt động cứu người, giáo dục, và sáng tác văn học, để lại những tác phẩm có giá trị mãi mãi. Sự nghiệp sáng tác trong văn học của ông chia thành hai giai đoạn: trước năm 1958 với chủ đề viết về đạo đức, và sau năm 1858 với chủ đề viết về lòng yêu nước.

Lục Vân Tiên là tác phẩm được sáng tác vào đầu những năm 50 thế kỷ XIX, là kiệt tác trong văn hóa thơ Nôm. Tác phẩm nói về cuộc đấu tranh giữa hai thế lực thiện và ác, vạch trần những kẻ bất nhân, bất nghĩa trong xã hội. Nó ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của con người, tình nghĩa và lòng chung thủy, đồng thời lên án những kẻ xấu xa trong xã hội. Về mặt nghệ thuật, Lục Vân Tiên tập trung vào cuộc đấu tranh giữa hai vế nhân vật, mang đậm màu sắc Nam Bộ và đặc trưng về ngôn ngữ.

Trong đoạn trích đánh cướp Phong Lai, Lục Vân Tiên là một người có tinh thần trượng nghĩa, quả cảm. Việc đánh lũ cướp không làm anh ta băn khoăn, vì anh ta coi đó là lẽ tự nhiên. Trong trận đánh không cân sức, Lục Vân Tiên, một mình, với gươm giáo làm từ thân cây, đã tô đậm sự dũng cảm và tài năng thiên phú của anh ta.

“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng đương giang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”

Tuy nhiên, với tài năng ứng biến của mình, Lục Vân Tiên vẫn mạnh mẽ sẵn sàng đối mặt với đám cướp. Việc sử dụng từ ngữ Hán việt, nhịp điệu nhanh làm nổi bật lên sức mạnh to lớn cho trận đánh. 'Tả đột hữu xông' là cụm từ tạo hình, thể hiện Lục Vân Tiên sự tỏa sáng giữa đám cướp. Nguyễn Đình Chiểu còn tạo lên một chiến thắng vô cùng tuyệt vời cho chàng, khiến những kẻ ác phải hoảng sợ, chạy trốn, và tên Phong Lai bị đánh bại trong một thời gian ngắn. Thắng lợi này là minh chứng cho một sức mạnh phi thường, sự quả cảm, kiên cường của người anh hùng.

Sau trận đánh, Lục Vân Tiên ân cần hỏi thăm Kiều Nguyệt Nga, thể hiện sự nhân hậu và lịch sự của người anh hùng. Câu hỏi ân cần, nhẹ nhàng “Ai than khóc ở trong xe nầy?' làm nổi bật lên một tâm hồn nhân hậu của Lục Vân Tiên. Chàng ta khiêm tốn khi nói về chiến công hiển hách của mình, thể hiện sự khiêm nhường và sẵn lòng đặt lợi ích của người khác trên lợi ích của bản thân. Người anh hùng ấy còn thể hiện lòng cảm thông, thương xót đối với những người gặp khó khăn, hoạn nạn. Cách xưng hô 'nàng - ta' thể hiện sự trân trọng và lịch sự của một con người có giáo dục.

Trong 6 câu thơ cuối, Lục Vân Tiên còn lại thể hiện ra một lòng hào hiệp trượng nghĩa, sẵn sàng vì dân trừ hại.

“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rő đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Tính cách của Lục Vân Tiên thể hiện qua nụ cười hạnh phúc, tự do, không màng đến sự đền ơn. Chàng ta là hình tượng anh hùng vĩ đại với tư duy và sức mạnh, hành động trượng nghĩa, một lý tưởng của một văn vő song toàn, đại diện cho người quân tử trong xã hội cũ.

Kiều Nguyệt Nga, hình ảnh của người phụ nữ truyền thống, được mô tả bởi sự gia giáo, thông minh và lòng nhân hậu. Với tâm hồn trân trọng truyền thống, Kiều Nguyệt Nga ghi nhớ công ơn, sẵn lòng đền đáp, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và sự thấu hiểu lễ nghĩa. Nàng là kết tinh của vẻ đẹp phụ nữ truyền thống, thấu tình đạt lý.

Kiều Nguyệt Nga ấn tượng với lòng thủy chung. Dù nhận thức rő ràng về lễ giáo nam nữ, nàng vẫn sẵn sàng đền đáp Lục Vân Tiên. Nàng biết trân trọng tình nghĩa và cho rằng không có thứ gì có thể sánh với công ơn của Lục Vân Tiên. 

Trích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là minh chứng cho một vẻ đẹp về tình yêu lý tưởng của một người anh hùng và một người phụ nữ truyền thống. Thể hiện sự toàn vẹn về văn vő, hiểu biết lễ nghĩa, đức tính khiêm nhường của Lục Vân Tiên. Đồng thời, Kiều Nguyệt Nga là biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống.

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết bài Soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học trong sách giáo khoa Cánh diều 9 tập 1. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

 

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-phan-tich-mot-doan-trich-tac-pham-van-hoc-van-9-tap-1-canh-dieu-4289.html

 

Tovább

Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Kiều ở lầu Ngưng Bích| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Truyện Kiều - Nguyễn Du là một tác phẩm văn học kinh điển trong nền văn học Việt Nam. Thuý Kiều là một minh chứng cho “Hồng nhan bạc mệnh”, cùng VUIHOC khai thác những sóng gió để hiểu thêm về số phận đau buồn của Kiều qua soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích Ngữ văn lớp 9 tập 1 chương trình Cánh diều.

1. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Kiều ở lầu Ngưng Bích: Chuẩn bị 

Yêu cầu (trang 44 sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

- Học sinh đọc trước đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.

- Học sinh đọc nội dung giới thiệu để tìm hiểu bối cảnh đoạn trích

Sau khi bị Mã Giám Sinh làm nhục, biết mình bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều liều mình tự vẫn. Mụ chủ nhà chứa sợ “mất cả vốn lẫn lời” nên đã vờ hứa hẹn sẽ gả chồng cho Kiều, rồi đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thực chất là giam lỏng và chuẩn bị âm mưu, hóng bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc.

2. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Kiều ở lầu Ngưng Bích: Đọc hiểu 

2.1 Chú ý việc sử dụng từ ngữ để diễn tả hoàn cảnh của Kiều. 

Không gian trước lầu Ngưng Bích được miêu tả là rộng lớn và mênh mông qua các từ như "non xa," "trăng gần," và "bát ngát." Không gian được  mở ra theo chiều cao và chiều xa, tạo cảm giác chênh vênh và đơn độc giữa cảnh bao la. Sự trống trải và hoang vắng của cảnh vật được thể hiện rő qua các từ như "cát vàng," "bụi hồng," "cồn nọ," và "dặm kia," tất cả đều gợi lên sự thiếu vắng sự sống và cảm giác ngổn ngang.

Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều được biểu hiện qua hình ảnh "mây sớm đèn khuya," cho thấy sự lặp đi lặp lại và quay vòng của thời gian, tạo cảm giác nhàm chán và buồn tẻ.

Khung cảnh thiên nhiên này phản ánh rő hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Nàng bị giam lỏng, mất tự do ở chốn hoang vắng mặc dù thơ mộng, mang trong mình cảm giác cô đơn, buồn tủi và đầy hổ thẹn.

Các từ ngữ như "khóa xuân," "non xa," "trăng gần," "bốn bề," "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia" đều góp phần diễn tả hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều, nhấn mạnh sự cô độc và buồn bã trong tình cảnh của nàng.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2.2 Biện pháp tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là phương pháp tác giả dùng để mượn cảnh vật thiên nhiên diễn tả tâm trạng nhân vật, nơi cảnh không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn phản ánh trạng thái tâm hồn của con người. Cảnh vật trở thành phương tiện, còn cảm xúc là mục đích chính của miêu tả. Phương pháp này rất phổ biến trong văn học cổ điển và được Nguyễn Du thể hiện xuất sắc. Ông đã từng nói: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".

Trong tám câu thơ cuối của đoạn trích, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng hiệu quả:

- Hai câu thơ: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” mô tả cảnh cửa bể vào buổi chiều với cánh buồm nhỏ xa xăm. Khung cảnh này không chỉ thể hiện nỗi nhớ thương gia đình và quê hương của Thúy Kiều mà còn biểu hiện sự vô định, lạc lőng trong cuộc đời đầy bất trắc của nàng.

- Hai câu thơ: “Buồn trông mặt nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu” thể hiện nỗi buồn tình duyên của Kiều, với hình ảnh hoa trôi dạt giữa dòng nước giống như cuộc đời nàng đang bị dập vùi không biết đi về đâu.

- Hai câu thơ: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” phản ánh sự buồn tủi và đau khổ của Kiều. Nội cỏ "rầu rầu" tạo nên sự đơn điệu, buồn tẻ như chính cuộc đời nàng đang phải chịu đựng.

- Hai câu thơ: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” khiến người đọc cảm nhận được âm thanh của sóng vỗ, tượng trưng cho những biến cố và giông bão trong cuộc đời Kiều. Tiếng sóng vang vọng làm tăng thêm sự bất an và nỗi đau của nàng.

Qua những hình ảnh này, Nguyễn Du đã tài tình thể hiện được tâm trạng và cảnh ngộ của Thúy Kiều, đồng thời khẳng định tài năng sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của mình.

2.3 Dự cảm tương lai được thể hiện qua hình ảnh nào?

Dự cảm tương lai được thể hiện qua các hình ảnh:

- “Gió cuốn mặt duềnh”: Ám chỉ cho những sóng gió cuộc đời đang bủa vây quanh Kiều, báo hiệu những tai ương sắp tới mà Kiều phải đối mặt.

- “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”: Diễn tả nỗi buồn và sợ hãi đang trào dâng trong lòng Kiều, báo hiệu rằng sóng gió cuộc đời đang tiến đến gần.

3. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Kiều ở lầu Ngưng Bích: Trả lời câu hỏi cuối bài 

3.1 Câu 1 trang 46 SGK Văn 9 tập 1 Cánh diều

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể chia làm mấy phần? Trình bày nội dung chính của mỗi phần.

Lời giải chi tiết:

Bố cục đoạn trích được chia thành 3 phần:

- 6 câu đầu: Hoàn cảnh đơn độc và tội nghiệp của Thúy Kiều

- 8 câu tiếp: Nỗi nhớ thương tới Kim Trọng - người mình yêu và nhớ thương cha mẹ của Kiều

- 8 câu cuối: Tâm trạng đau buồn, cô quạnh và dự cảm trước tương lai sóng gió

3.2 Câu 2 trang 46 SGK Văn 9 tập 1 Cánh diều

 Khung cảnh được miêu tả ở sáu dòng thơ đầu có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện tâm trạng của Thuý Kiều?

Lời giải chi tiết:

Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích được miêu tả qua con mắt của Thuý Kiều, thể hiện tâm trạng cô đơn và tội nghiệp của nàng:

- Không gian trước lầu Ngưng Bích hiện lên rộng lớn và hoang vắng: chiều rộng được miêu tả qua các hình ảnh như "bốn bề bát ngát xa trông," "cát vàng cồn nọ," "bụi hồng dặm kia"; chiều cao được thể hiện qua hình ảnh "dãy núi xa và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời." Không gian cảnh vật mang lại cảm giác mênh mông, hoang vắng.

- Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều được miêu tả với cụm từ "mây sớm đèn khuya," gợi lên sự tuần hoàn khép kín của thời gian. Thời gian và không gian dường như giam hãm con người, khi sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều chỉ có một mình lẻ loi. Thời gian cứ trôi qua rồi quay lại, mang lại cảm giác đơn độc, buồn tẻ.

Qua khung cảnh thiên nhiên này, ta có thể thấy Kiều đang ở trong hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối, với tâm trạng buồn tủi, hổ thẹn. Cụm từ "như chia tấm lòng" diễn tả nỗi niềm chua xót và tâm trạng tan nát của Kiều.

=> Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh thiên nhiên được sử dụng để làm nền cho tâm tình của Kiều. Thiên nhiên rộng lớn, còn con người thì nhỏ bé và đơn độc.

3.3 Câu 3 trang 46 SGK Văn 9 tập 1 Cánh diều

 Thuý Kiều lần lượt nhớ tới những ai? Theo em, trình tự nỗi nhớ đó có hợp lí không? Vì sao?

Lời giải chi tiết:

Trong hoàn cảnh của mình, Thuý Kiều đã nhớ tới cả cha mẹ và người yêu Kim Trọng. Đầu tiên nàng nghĩ về Kim Trọng, sau đó mới nghĩ đến cha mẹ. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý của con người. Trước khi ra đi, Kiều đã gặp cha mẹ và đã làm tròn bổn phận bán thân chuộc cha và em, nên nàng cảm thấy yên tâm. Nhưng đối với Kim Trọng, người nàng vô cùng yêu thương nhưng chưa được gặp lại và chàng Kim cũng cũng chưa biết câu về gia đình Kiều. Đặc biệt, nàng cảm thấy day dứt, đau khổ và có lỗi khi không thể giữ được lời thề ước với Kim Trọng.

3.4 Câu 4 trang 46 SGK Văn 9 tập 1 Cánh diều

 Theo em, tám dòng thơ từ dòng 7 đến dòng 14 trong đoạn trích là lời của ai? Vì sao em biết điều đó? Những lời này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội tâm nhân vật?

Lời giải chi tiết:

Tám dòng thơ từ dòng 7 đến dòng 14 trong đoạn trích là lời tự sự của Thuý Kiều. Đây là những dòng thơ thể hiện nỗi nhớ thương sâu sắc của Kiều dành cho người yêu Kim Trọng và cha mẹ.

 Với ngòi bút tinh tế, Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí của Thuý Kiều một cách chân thực và sắc sảo. Chỉ trong tám câu thơ, ông đã lột tả tâm trạng Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích, vừa cô đơn, lạc lőng lại mịt mù về tương lai. Tuy nhiên, dù ở trong hoàn cảnh đó, Kiều vẫn hiện lên là một người con hiếu thảo và một người tình thủy chung, son sắt. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng các thành ngữ, điển tích, điển cố và từ ngữ chính xác để miêu tả tâm trạng của Kiều. Điều này cho thấy ông là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ miêu tả.

3.5 Câu 5 trang 46 SGK Văn 9 tập 1 Cánh diều

Kiều ở lầu Ngưng Bích được coi là một trong những đoạn trích thể hiện tài năng của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Hãy phân tích tám dòng thơ cuối để làm sáng rő điều đó.

Lời giải chi tiết:

Giải thích:

- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là kỹ thuật mà tác giả dùng cảnh vật để gửi gắm tâm trạng nhân vật.

- Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật này một cách tài tình trong tám câu thơ cuối đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".

→ Qua đó, tâm trạng cô đơn, đau khổ và dự cảm về tương lai đầy sóng gió của Thúy Kiều được bộc lộ rő nét.

- Phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu cuối "Kiều ở lầu Ngưng Bích":

+ "Cửa bể chiều hôm", "cánh buồm xa xa": Gợi lên nỗi cô đơn, lạc lőng của Thúy Kiều nơi đất khách quê người.

+ "Ngọn nước mới sa", "hoa trôi man mác": Gợi ra sự nhỏ bé, lênh đênh của một kiếp người trôi nổi, không nơi nương tựa.

+ "Nội cỏ rầu rầu", "một màu xanh xanh": Biểu hiện cho cuộc đời tàn lụi, héo úa; màu xanh nhợt nhạt, đơn điệu phản ánh tâm trạng tuyệt vọng, chán nản của Kiều.

+ "Gió cuốn mặt duềnh", "ầm ầm tiếng sóng": Sóng biển dữ dội như tương lai đầy sóng gió của Kiều, khiến nàng lo sợ và hoảng loạn.

- Đánh giá chung: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình giúp truyền tải mỗi trạng thái tâm trạng của Kiều qua từng cảnh vật. Ngòi bút của Nguyễn Du vô cùng tinh tế, từ việc tả cảnh đến việc thể hiện tình cảm của nhân vật.

3.6 Câu 6 trang 46 SGK Văn 9 tập 1 Cánh diều

Dựa vào 14 dòng thơ đầu, em hãy chuyển thành một đoạn văn xuôi.

Lời giải chi tiết:

Khi bước chân vào lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều đã cảm nhận rằng nơi này sẽ giam cầm tuổi xuân tươi đẹp của mình. Từ lầu cao, nàng nhìn ra xung quanh chỉ thấy dãy núi trập trùng và mảnh trăng cô đơn, cả hai đều như xa vời nhưng thực ra chỉ chung một vòm trời với nàng. Không gian quanh Thúy Kiều là bát ngát, trống trải với cồn cát vàng và những bụi hồng. Nhìn vào cảnh vật, Thúy Kiều càng cảm nhận rő sự nhỏ bé và nỗi cô đơn đến tột cùng của bản thân. Cuộc sống ở lầu Ngưng Bích vô cùng tẻ nhạt và vô nghĩa, nàng bị giam cầm cả về thể xác lẫn tâm hồn, đau đớn cho số phận của mình. Những biến cố đã khiến nàng mất đi tất cả: tình yêu, hạnh phúc và tự do. Không chỉ bị Mã Giám Sinh lừa dối, Thúy Kiều còn bị lưu lạc vào chốn lầu xanh, muốn thoát ra nhưng không có cách nào. Cảnh vật xung quanh như đồng cảm với nỗi đau của Thúy Kiều, cành cây ngọn cỏ đều mang vẻ u sầu, nhìn càng cảm thấy trống trải, cô đơn. Thúy Kiều nhớ về những ngày tháng yên bình và hạnh phúc xưa kia, nhớ về cuộc gặp gỡ tình cờ và mối lương duyên với Kim Trọng. Chàng là mối tình đầu của nàng, người đã cùng nàng thề hẹn. Tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng chưa từng đổi thay, nhưng giờ đây nàng cảm thấy không còn xứng đáng với tình yêu của chàng. Nàng cũng nhớ về cha mẹ với lòng xót thương, vì không thể chăm sóc và phụng dưỡng họ lúc về già.

 

Trên đây VUIHOC đã cùng các bạn Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Kiều ở lầu Ngưng Bích thuộc chương trình Ngữ Văn 9 tập 1 Cánh diều. Đoạn trích không chỉ thể hiện tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh, mà còn là minh chứng cho bút pháp tự sự đặc sắc của ông qua việc tả cảnh ngụ tình. Ngoài ra, để học nhiều hơn các kiến thức khác của trong chương trình học học thì các em hãy nhanh tay truy cập và website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-doc-hieu-kieu-o-lau-ngung-bich-van-9-tap-1-canh-dieu-4288.html

 

Tovább

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 43| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 43| Văn 9 tập 1 Cánh diều dưới đây sẽ hướng dẫn các em về nội dung của một số điển tích điển cố quen thuộc cũng như tác dụng của chúng trong mỗi tác phẩm.

 

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 43 Văn 9 tập 1 Cánh diều

1. Câu 1 trang 43 SGK Văn 9/1 Cánh diều 

Ghép các điển cố, điển tích (in đậm) ở bên A với nguồn gốc và nghĩa nêu ở bên B

a) Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/ Cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm còn dành phía tả. (Nguyễn Trãi) ghép với 2) Điển tích, lấy từ chuyện xưa bên Trung Quốc: "Tín Lăng Quân người nước Nguy, nghe nói Hầu Doanh là người hiền tài, đem xe đi đón. Tín Lăng Quân ngồi bên hữu (bên phải), dành bên tả (bên trái) cho Hầu Doanh để tỏ ý đặc biệt tôn trọng.". Câu văn mượn chuyện này để ngụ ý: Lê Lợi luôn mong đợi người hiền tài.

b) Chí làm trai dặm ngàn da ngựa/ Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. (Chinh phụ ngâm) ghép với 3) Điển cố, lấy ý từ câu của Mã Viện thời Hán: “Bậc trượng phu nên chết ở nơi biên giới, chốn chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây ... ". Câu này ngụ ý: Làm trai phải đánh đông dẹp bắc, xả thân nơi chiến trường vì nghĩa lớn.

c) Một hai nghiêng nước nghiêng thành/ Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai (Nguyễn Du) ghép với 4) Điển cố, lấy từ bài ca của Lý Diên Niên (Trung Quốc): “Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc” (Ngoảnh lại một cái làm xiêu thành trì của người, ngoảnh lại cái nữa làm xiêu nước của người.). Câu thơ mượn từ ngữ của bài thơ xưa để diễn tả vẻ đẹp của Thuý Kiều.

d) Nuôi con những ước về sau,/ Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. (Nguyễn Du) ghép với 1) Điển tích, lấy từ chuyện xưa bên Trung Quốc: “Vua Vũ Hán Đế kén phò mã, cho công chúa ngồi trên lầu ném quả cầu xuống, ai cướp được thì được làm phò mã”. Câu thơ mượn chuyện này để ngụ ý: Cha mẹ Thuý Kiều mong muốn gả con vào nơi xứng đáng.

2. Câu 2 trang 43 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Dựa vào chú thích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, giải thích nguồn gốc và ý nghĩa của các điển cố, điển tích (in đậm) trong những câu dưới đây:

a) Trải qua một cuộc bể dâu/Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

  • Điển tích: Bể dâu

  • Ý nghĩa của điển tích này chính là ám chỉ sự thay đổi nhanh chóng và biến chuyển mạnh mẽ xảy ra trước mắt chúng ta.

b)Bấy lâu nghe tiếng má đào/Mắt xanh chẳng để ai vào đó không?

  • Điển cố: Mắt xanh

  • Ý nghĩa: Trong đời nhà Tần, Nguyễn Tịch nổi danh với việc ứng xử với mọi người. Khi ông giao tiếp với người mà mình thích thì ông sẽ nhìn thẳng nên người đối diện sẽ nhìn thấy tròng mắt màu xanh. Nhưng khi gặp người mà ông ghét thì ông sẽ nhìn nghiêng, lườm họ nên họ sẽ chỉ nhìn thấy được tròng mắt màu trắng. Chính vì vậy, ''Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?'' ám chỉ người con gái tài sắc vẹn toàn được rất nhiều người đàn ông yêu thương hỏi cưới. Ai được nàng chấp nhận sẽ thường được gọi là “lọt vào mắt xanh” của cô gái.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

3. Câu 3 trang 44 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Tìm trong sách, báo (hoặc trên Internet) câu chuyện Tái Ông thất mã (Tái Ông mất ngựa). Viết một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng) kể lại chuyện đó và nêu ý nghĩa của điển tích “ngựa Tái Ông”.

Câu chuyện kể về một ông lão gọi là Tái Ông sống ở gần biên giới phía Trung Bắc có nuôi một con ngựa giá trị. Thế nhưng bằng cách nào đó tự nhiên con ngựa đã đi chạy khỏi chuồng và biến mất. Khi người quen đến nhà hỏi thăm, ông đã tự an ủi bản thân nói với họ “Mất ngựa biết đâu lại là điềm may”. Quả nhiên, sau vài ngày con ngựa không những quay lại mà còn mang theo mấy con ngựa đẹp về cùng. Những người hàng xóm biết tin lập tức đến chia vui, ông liền nói: “Ôi dào! Được thêm ngựa biết đâu lại là hoạ đó”. Tái Ông thực sự rất thiêng, nói gì được ngay nấy. Con trai ông thấy con ngựa đẹp nên mải mê tập cưỡi ngựa, cưỡi nó cả ngày cho đến một ngày bị ngã ngựa và gãy chân. Đến lúc ai cũng xác định đây là tai họa thì Tái Ông lại bình tĩnh nói “Biết đâu lại là phúc đó!”. Và tất nhiên, lời của ông lại một lần nữa linh nghiệm khi mà ngay sau đó, kẻ thù xâm chiếm đất nước và tất cả thanh niên đều phải ra trận. Nhưng trong trận chiến phần chết là điều chắc chắn thì con trai ông vì bị gãy chân mà không phải ra chiến trường. Cả gia đình ông được sống với nhau cả đời, con ông vui vẻ lấy vợ sinh con nối dői tông đường. Đúng là trong hạnh phúc luôn có tai họa và trong tai họa cũng sẽ có phần hạnh phúc, cuộc sống thật khó có thể đoán trước được.

Ý nghĩa của điển tích “ngựa Tái Ông”: Cuộc sống luôn khó lường không thể dự đoán trước điều gì. Một điều may mắn đến không có nghĩa không có xui xẻo nhưng những điều xui xẻo khi đến cũng không có nghĩa ta sẽ gặp họa.

 

Qua bài viết phía trên VUIHOC đã giúp các em biết cách Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 43| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Các em hãy thường xuyên tương tác với các bài viết trong website vuihoc.vn hoặc trực tiếp đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ để có thêm nhiều các kiến thức không chỉ với môn Văn và cả các môn học khác nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-tieng-viet-trang-43-van-9-tap-1-canh-dieu-4287.html

 

 

Tovább

Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Bài viết dưới đây chính là soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga| Văn 9 tập 1 Cánh diều mà Vuihoc gửi đến các em. Hy vọng qua bài soạn này các em sẽ hiểu thêm về tác giả Nguyễn Đình Chiểu cùng với đoạn trích nổi tiếng “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” từ tác phẩm nổi tiếng Lục Vân Tiên.

1. Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga: Chuẩn bị 

1.1 Tìm hiểu về Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu

- Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm 1822 mất ngày 24 tháng 5 năm 1888 tại làng Tân Thới phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định ngày nay chính là phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. 

- Ông sinh ra ở quê mẹ, xuất thân trong một gia đình nhà nho hiếu học.

- Thời nhỏ ông được mẹ nuôi dạy và theo học một ông thầy đồ cùng làng. Vì biến đổi của thời thế khiến cho năm 11 tuổi ông đã chuyển đến Huế để học tập, đến năm 18 tuổi thì ông quay trở lại Gia Định.

- Đến năm 1843, khi ông ở tuổi 21 ông đã đỗ tú tài ở trường thi Gia Định. Đến bốn năm sau ông lại ra Huế để chờ khoa thi vào năm 1849.

- Vào năm 1848, mẹ ông mất. Nghe tin dữ, ông đã lập tức cùng em trai về nhà chịu tang mẹ. Nhưng do khóc quá nhiều vì thương mẹ cũng như thời tiết thất thường và quãng đường di chuyển vất vả khiến cho ông bị ốm nặng. Sau thời gian được chạy chữa nhưng không hết bệnh khiến cho ông bị mù. Tai họa liên tục ập tới, sau khi mắt ông hỏng thì ông bị vị hôn thê bỏ, gia cảnh ngày càng sa sút. Trong thời gian bị ốm đã học nghề thuốc, đến năm 1851 thì ông mở trường dạy học và làm thầy thuốc với hiệu Hối Trai.

- Sự nghiệp văn chương của tác giả Nguyễn Đình Chiểu có thể chia thành hai giai đoạn chính:

+ Giai đoạn đầu vào những năm 50 của thế kỷ XIX. Đây chính là thời điểm ông viết ra những tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu. Có thể nói, đây là giai đoạn thể hiện những tư tưởng yêu nước thương dân và tư tưởng nhân nghĩa của ông.

+ Giai đoạn sau là từ khi quân Pháp chiếm Gia Định đến năm ông qua đời. Thời kỳ này cuộc sống của ông gắn bó trực tiếp với người dân trong hoàn cảnh mất nước. Lúc này các tác phẩm của ông chính là những lời phê phán, lên án mạnh mẽ quân xâm lược cũng như phê phán triều đình nhu nhược yếu đuối không thể bảo vệ đất nước.

1.2 Tìm hiểu về tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên

- Lục Vân Tiên được viết bằng chữ Nôm, được tác giả chắp bút vào khoảng năm 1851.

- Tác phẩm gồm 2082 câu thơ lục bát, được đánh giá là "bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng trọng ở đời”.

- Lục Vân Tiên chính là một tác phẩm lớn của nền văn học Việt Nam ta, là tác phẩm đã làm nên tên tuổi của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2. Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga: Đọc hiểu 

2.1 Chú ý việc sử dụng từ ngữ mang sắc thái Nam Bộ trong cả đoạn trích. 

Tác giả đã sử dụng một hệ thống từ ngữ mang đậm sắc thái Nam Bộ trong đoạn trích như: vô, mầy, nầy, đàng, vầy, chưa hãn dạ nầy,...

2.2 Chú ý các chi tiết miêu tả hành động trượng nghĩa của Lục Vân Tiên. 

Các chi tiết miêu tả hành động trượng nghĩa của Lục Vân Tiên có thể kể đến động từ: xông vô, kêu rằng, bẻ cây làm gậy, dẹp lũ kiến chòm ong, tả đột hữu xông,...

2.3 Các lời đối thoại giữa hai nhân vật chính thể hiện phẩm chất gì của họ?

Qua lời đối thoại giữa hai nhân vật chính, người đọc có thể thấy được những phẩm chất của họ:

- Lục Vân Tiên là ăn văn vő song toàn, luôn chủ động hành hiệp trượng nghĩa, coi trọng lễ giáo, trọng nghĩa khí, làm việc thiện việc tốt mà không cần được trả ơn và đặc biệt là một người anh hùng rất dũng cảm.

- Kiều Nguyệt Nga chính là đại diện cho những người phụ nữ truyền thống thùy mị nết na, là người có tài có sắc, một thiếu nữ khuê các duyên dáng mà có học thức. Cô cũng là người trọng tình trọng nghĩa, luôn suy nghĩ tìm cách trả ơn người đã giúp đỡ mình. 

2.4 Nguyệt Nga đã thể hiện lòng biết ơn với Lục Vân Tiên thế nào?

Kiều Nguyệt Nga đã thể hiện lòng biết ơn với Lục Vân Tiên qua:

- Cách xưng hô: nàng đã sử dụng đại từ “quân tử” và “tiện thiếp” để nói chuyện với người ân nhân Lục Vân Tiên. Cách xưng hô này đã thể hiện được sự khiêm nhường của nàng, qua đó còn là sự dịu dàng, chuẩn mực khi đáp lại những câu hỏi của Lục Vân Tiên rất ngắn gọi nhưng lại đủ ý.

- Nàng rất áy náy và tìm mọi cách để trả ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên. Kiều Nguyệt Nga biết rő ân nghĩa này dù có trả bao nhiêu cũng không thể đủ được.

2.5 Vân Tiên đã có hành động thế nào trước thái độ của Nguyệt Nga?

Trước thái độ biết ơn của Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên đã có những hành động:

- Gạt ngay khi thấy thái độ muốn lạy để tạ ơn, anh còn từ chối luôn lời mời về nhà để cả gia đình nàng đền đáp của Kiều Nguyệt Nga “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”.

- Đối với Lục Vân Tiên, việc cứu giúp người gặp nạn là chuyện hiển nhiên không cần bất cứ lời cảm ơn hay đền đáp gì. Với bất cứ ai, chàng cũng sẽ lựa chọn giúp đỡ mà không cần suy nghĩ “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

- Cách từ chối của Lục Vân Tiên đã giúp người đọc thấy được thái độ của chàng. Với chàng, những việc mình vừa làm xuất phát từ chính bản năng của con người, là gốc rễ của lẽ sống con người, là lời phê phán nặng nề với những ngụy quân tử.

3. Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga: Trả lời câu hỏi cuối bài 

3.1 Câu 1 trang 44 SGK Văn 9/1 Cánh diều 

Có thể chia đoạn trích làm mấy phần? Trình bày nội dung chính của từng phần.

Có thể chia đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga thành 2 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “thân vong” - Miêu tả hành động đánh đuổi quân cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga của Lục Vân Tiên.

  • Phần 2: Tiếp theo đến hết - Thái độ và cuộc hội thoại của hai nhân vật chính Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.

3.2 Câu 2 trang 44 SGK Văn 9/1 Cánh diều

"Nhân vật trong truyện thơ Nôm thường được chia thành hai tuyến đối lập nhau", đặc điểm đó được thể hiện như thế nào trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga?

- Cũng như câu nói 'Nhân vật trong truyện thơ Nôm thường được chia thành hai tuyến đối lập nhau', đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga cũng đã thể hiện được hai tuyến nhân vật đối lập là:

- Phe chính nghĩa: Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga… thể hiện tính cách ngay thẳng, thiện lương, trọng nghĩa khí của con người.

- Phe phản diện: Phong Lai, toán cướp,... phần xấu xa, gian ác, hung dữ của những tên hèn hạ ngụy quân tử.

3.3 Câu 3 trang 44 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phân tích nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, từ đó làm rő những nét tính cách nổi bật của người dân Nam Bộ được thể hiện qua đoạn trích.

Qua hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, tác giả đã phần nào làm rő được những nét tính cách nổi bật của người dân Nam Bộ:

Lục Vân Tiên được tái hiện lên theo mô típ của các tác phẩm văn học chữ Nôm truyền thống. Câu chuyện anh hùng cứu người đẹp, khi một chàng trai tài giỏi dũng cảm đã giơ tay ra cứu giúp một người thiếu nữ xinh đẹp thoát khỏi tình cảnh nguy hiểm. Qua hành động đánh đuổi toán cướp cứu người gặp nạn, người đọc có thể dễ dàng thấy được tài năng vő thuật cũng như cốt cách anh hùng và tấm lòng trọng nghĩa của Lục Vân Tiên. Chàng chính là đại diện cho những người vő tướng, dù chỉ một mình và tay không tấc sắt vẫn sẵn sàng can đảm mà “bẻ cây làm gậy” xông thẳng vào xử lý toán cướp với đầy đủ vũ trang. Với Kiều Nguyệt Nga, thái độ của Lục Vân Tiên dường như thay đổi hoàn toàn so với toán cướp. Chàng quay trở lại với bản chất hào hoa phong nhã của mình với cách giao tiếp đầy khiêm tốn, giản dị bộc lộ bản thân là một người hào hiệp, chính trực mà rất nhân hậu khi trọng nghĩa khinh tài. Lục Vân Tiên biết được việc hai cô gái còn đang hoảng sợ hãi hùng nên đã tìm cách an ủi và ân cần hỏi han cho thấy một chàng trai chững chàng mà rất đàng hoàng tử tế “Ta đã trừ dòng lâu la”. Ngay khi thấy thái độ biết ơn cùng với lời mời về thăm nhà để gia đình họ có cơ hội đền đáp công ơn cứu mạng thì chàng đã từ chối ngay với lý do “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Đối với người anh hùng Lục Vân Tiên thì việc giúp đỡ kẻ yếu tiêu diệt quân gian ác nó đã là bản năng, là hành động mà không cần bất cứ sự đắn đo suy nghĩ nào, là lẽ tự nhiên và là bổn phận của một người anh hùng “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. Với cách xây dựng hình tượng nhân vật tài tình mà chân thật đó, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã gửi đến người đọc những khát vọng cũng như niềm tin của mình về một tương lai tươi đẹp, một thế giới công bằng hơn.

Ngược lại với hình tượng người anh hùng Lục Vân Tiên đầu đội trời, chân đạp đất chính là cô gái thùy mị nết na, có nhan sắc có học thức Kiều Nguyệt Nga. Là một cô gái chốn khuê các đúng nghĩa, sự đằm thắm ân tình cũng như cách cư xử có trước có sau dường như đã ngấm vào máu của cô thiếu nữ này. Việc được Lục Vân Tiên cứu giúp lúc hiểm cảnh với cô không chỉ là cứu một mạng sống mà còn là cứu giúp cả cuộc đời trong sạch của mình “Lâm nguy chẳng gặp giải nguy/ Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”. Chính vì vậy cô càng biết ơn Lục Vân Tiên hơn, luôn miệng cảm ơn và tìm mọi cách để báo đáp công ơn đó dù cô biết rő đây là công ơn không có cách nào đền đáp cả “Lấy chi cho phải tấm lòng cùng ngươi”.

3.4 Câu 4 trang 44 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phân tích đặc điểm ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật được thể hiện trong đoạn trích.

- Đặc điểm ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật được thể hiện trong đoạn trích: ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, là những biệt ngữ xã hội mang đậm màu sắc địa phương của vùng Nam Bộ. Nếu so sánh với các tác phẩm văn học khác thì tác phẩm Lục Vân Tiên có phần thiếu đi sự chau chuốt và uyển chuyển. Nhưng với sự đa dạng và tính phù hợp của ngôn ngữ đã khiến cho giọng thơ rất tự nhiên, dễ hiểu, dễ chạm vào mạch cảm xúc của độc giả.

  • Lục Vân Tiên: những động từ thể hiện sự hùng hồn, mạnh mẽ, dứt khoát với phe phản diện Phong Lai. Nhưng với Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên lại là người rất nhẹ nhàng, quân tử, dũng cảm.

  • Kiều Nguyệt Nga: ngôn ngữ rất phù hợp với người con gái đoan trang, thùy mị, dịu dàng chốn khuê các.

  • Phong Lai: thể hiện đúng bản chất của kẻ gian ác với giọng thơ hung dữ, vô học mà rất ngạo mạn không coi ai ra gì.

3.5 Câu 5 trang 44 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Tìm hiểu chủ đề của văn bản Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga và cho biết căn cứ để xác định chủ để đó. Tư tưởng và tình cảm của tác giả được thể hiện trong đoạn trích như thế nào?

- Chủ đề của văn bản Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nói về khát vọng về một thế giới tốt đẹp, luôn giúp đời giúp người và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người.

- Có thể xác định chủ để đó qua những hành động, lời nói, cử chỉ và thái độ của hai nhân vật chính Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.

- Tư tưởng và tình cảm của tác giả được thể hiện ngay trong đoạn trích: sự ca ngợi hết lời, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của những người anh hùng luôn giúp đời cứu người, dũng cảm, nghĩa khí, làm việc tốt mà không bao giờ cần sự đền đáp.

3.6 Câu 6 trang 44 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Nêu cảm nghĩ của em về câu chuyện Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.

Qua câu chuyện Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga, em có thể thấy được những đặc sắc trong tính cách của từng nhân vật nhất là hai nhân vật chính. 

Lục Vân Tiên đúng chuẩn là định nghĩa cho hai chữ anh hùng. Chàng trọng tình trọng nghĩa, luôn dũng cảm không nề hà bất cứ điều gì để giúp đỡ kẻ yếu.

Kiều Nguyệt Nga là một cô gái đẹp người đẹp nết, thể hiện đúng tính cách của những người phụ nữ của thế hệ phong kiến xưa luôn trọng ân tình, nhân hậu, dịu dàng đằm thắm.

Tất cả nội dung thơ, cách xây dựng hình tượng nhân vật hay chính cách sử dụng ngôn ngữ rất đời đã thể hiện được ước mơ và khát khao về một cuộc sống tốt đẹp không có kẻ xấu của người dân ta. Qua đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga, tác giả đã gửi đến người đọc bài học về đạo đức sống cũng như cách để làm một người anh hùng đúng nghĩa.

 

Trên đây VUIHOC đã cùng các bạn Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga| Văn 9 tập 1 Cánh diều . Để có thêm nhiều các kiến thức không chỉ với môn Văn và cả các môn học khác, các em hãy thường xuyên truy cập và website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-luc-van-tien-cuu-kieu-nguyet-nga-van-9-tap-1-canh-dieu-4286.html

 

 

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek