Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

Soạn bài củng cố, mở rộng Trang 59| SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Trong bài viết này, VUIHOC sẽ hướng dẫn các bạn cách để Soạn bài củng cố, mở rộng trang 59 cùng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Kết nối tri thức 9 tập 1 để nắm rő được nội dung và ý nghĩa của bài học, cùng theo dői nhé!

 

Soạn bài Củng cố và mở rộng Trang 61 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

1. Câu 1 Trang 59 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Những nỗi niềm xúc cảm của người chinh phụ ( trong Chinh phụ ngâm) và người khách tha hương ( trong Tiếng đàn mưa) có những điểm chung nào không? Vì sao?

Câu trả lời chi tiết:

- Những nỗi niềm cảm xúc của người chinh phụ và người khách tha hương có những điểm chung. Cụ thể đó là:

+ Những nỗi niềm của sự bồi hồi và sự nhớ nhung da diết: Người chinh phụ nhớ đến chồng, và lo lắng cho chồng ở nơi chiến trường; còn người khách tha hương nhớ về quê hương của mình đến mức nước mắt tuôn rơi như mưa.

+ Nỗi niềm mong ngóng, chờ đợi đến cháy bỏng nhưng lại vô vọng: Người chinh phụ mong ngóng, chờ đợi chồng mình về từng ngày, từng tháng mà mãi không thấy chồng ở nơi đâu; người khách tha hương thì lại bồi hồi, mong muốn quay trở lại quê nhà nhưng điều đó thật khó có thể xảy ra.

+ Tự thấy nỗi đau cho bản thân mình: Người chinh phụ thấy tự sầu não, ưu tư muộn phiền, đau buồn cho một kiếp người cô đơn ở nơi “buồng cũ chiếu chăn”; người khách tha hương tự buồn đau, phải tự yêu thương bản thân khi phải xa quê hương.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức 

2. Câu 2 Trang 59 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Những điều gì khiến cho thể thơ song thất lục bát có được những thế mạnh khi thể hiện ra những nỗi niềm, xúc cảm, những khát vọng riêng tư của con người?

Câu trả lời chi tiết:

- Thể thơ song thất lục bát có được những thế mạnh khi thể hiện ra những nỗi niềm, xúc cảm, những khát vọng riêng tư của con người bởi vì:

+ Thể thơ song thất lục bát có khả năng truyền đạt những cảm xúc mạnh mẽ mà lại sâu lắng. Chính vì điều này đã khiến cho các nhà thơ ưu tiên sử dụng thể thơ này hơn để truyền tải những nỗi niềm của chính bản thân mình.

+ Đây cũng là thể thơ giàu tính nhạc họa, xuất hiện ở trong nhiều thể loại văn học (đặc biệt xuất hiện nhiều nhất trong thể ngâm khúc). Điều này giúp cho các tác giả dễ dàng thể hiện những cảm xúc của mình đến được nhiều đối tượng.

+ Bản chất của thể thơ song thất lục bát cũng mang đậm tính nét trữ tình, giàu những biểu cảm, mang đậm cái tâm hồn của người Việt

3. Câu 3 Trang 60 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Tìm và đọc một tác phẩm thơ song thất lục bát viết về hình ảnh người phụ nữ. Em hãy so sánh hình tượng người phụ nữ trong các tác phẩm đó với hình tượng của người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm?

Câu trả lời chi tiết:

- Tác phẩm thơ song thất lục bát có chứa nội dung đề cập tới thân phận của người phụ nữ đó chính là tác phẩm Thân phận đàn bà của tác giả Ngọc Chi

- Thân phận hẩm hiu của người phụ nữ trong bài thơ Thân phận đàn bà và số phận của người phụ nữ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm đều có trong mình một cuộc đời ai oán, khổ đau, long đong, lận đận. Nếu như người chinh phụ mang trong mình nỗi khổ đau vì phải xa chồng, đau đớn cho thân phận của mình, thì người phụ nữ ở trong Thân phận đàn bà lại chịu khổ vì chiếc thân phận long đong, với một tương lai không được xác định, đành phải cam chịu tủi nhục cả một cuộc đời.

4. Câu 4 Trang 60 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Em hãy chọn và phân tích một tác phẩm thơ song thất lục bát mà em thấy yêu thích nhất.

Câu trả lời chi tiết:

Trong nền thơ văn Việt Nam từ xưa đã in dấu hơn một nghìn năm lịch sử của văn hóa dân tộc, nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng là một phần đóng góp cho sự vẻ vang trong đó. Những bài thơ của ông mang đến những tình cảm vô cùng chân thực và đẹp đẽ của người Việt Nam, được diễn đạt bằng những ngôn ngữ Việt Nam vô cùng gần gũi và giản dị. Trong số các bài thơ ấy tiêu biểu có thể kể đến đó là bài “Khóc Dương Khuê”.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng nhau đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều đình nhà Nguyễn. Tuy nhiên, sau năm 1884, đất nước ta rơi vào tay của thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến cáo quan về làng ở ẩn nhưng Dương Khuê thì lại không có cái chí hướng đó, ông tiếp tục làm quan cho triều đình nhà Nguyễn bấy giờ đang là tay sai cho thực dân, cho tới tận lúc ông qua đời ở tuổi 64. Chính cái chết đột ngột của Dương Khuê là một nỗi đau không nguôi của Nguyễn Khuyến. Chẳng màng đến những chuyện khác xung quanh, lúc đó Nguyễn Khuyến chỉ nghĩ rằng mình đã mất đi một người bạn thân nhất, một thứ tình cảm quý giá mà không thứ gì có thể thay thế được. Tự bản thân ông hiểu ra được tình bạn ấy đến ngay cả chính ông cũng không thể nào có thể đo lường hết được chiều sâu, và rồi ông kêu lên những tiếng thảng thốt:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”

Chẳng còn những sự trau chuốt cho văn chương chữ nghĩa, câu thơ chỉ còn là một nỗi đau, một nỗi đau vô cùng chân thành và trọn vẹn. Tiếng “thôi” có thể nghe dân giã mà tự nhiên làm sao, nhưng nó lại bộc phát từ chính sự đau đớn ở trong cői lòng của tác giả, ở trong cái hoàn cảnh xã hội mà người ta luôn tự đề cao những sự “cao nhã” ở trong văn chương thì ta thấy Nguyễn Khuyến đã coi trọng những sự chân thực trong cuộc sống đời thường đến mức nào. Tuy là có ý nói đến cái chết nhưng trong bài ông lại không dám nói hẳn từ “chết”, mà thay vào đó là câu “thôi đã…thôi rồi”, vậy đã coi như là hết, hết thật rồi, ông đã mất đi người bạn thân của mình mãi mãi. Một kẻ quyền quý có đánh rơi một viên ngọc quý độc nhất vô nhị cũng chỉ kêu được đến vậy mà thôi, nếu như không đau nỗi đau thật thì  làm sao có thể khóc lên trong mình một tiếng khóc thật đến thế. Chỉ có điều nỗi đau ấy của Nguyễn Khuyến không thể được gào thét lên, nên ông đã tự khóc với chính mình, tự mình khóc cho mình nghe, tiếng khóc đi vào lòng chứ chẳng thấu đến bất cứ ai. Lúc này ông chỉ muốn ngồi một mình, ngồi với người bạn đã khuất để cùng nhau nhớ lại những kỉ niệm đã có từ những ngày đã rất xa xôi:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước…
Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời.”

Tình bạn ấy đã được gắn bó kể từ khi hai người cùng nhau đi thi Hương và đỗ cùng nhau, hai người vốn khác quê, xa lạ, chẳng có quen biết gì nhưng cứ như duyên trời đã được định sẵn, họ cứ thế mà gắn bó cùng nhau. Đọc câu từ của Nguyễn Khuyến ta cảm thấy nó thật là bình dị mà cực kì gần gũi, thân mật “sớm hôm”, “tôi bác”, “cùng nhau”, chan chứa những tình cảm vô cùng gắn bó, sự “kính yêu từ trước đến sau”.

“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách…
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.”

Đôi bạn tâm đầu ý hợp đã từng trải qua cùng nhau những ngày tháng vui vẻ, thú vị, có trong mình một tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui của những kẻ cao nhân mặc khách. Tâm hồn của nhà thơ như đang rung động bản thân mình trước những kỉ niệm, đang được sống lại từng giây với những cảm giác “từng gác cheo leo”, và lắng nghe tiếng đàn tiếng hát dịu êm của “ả đào”. Là những người bạn đến với nhau như được sắp đặt của duyên số, thân nhau vì lòng mến mộ nhau, nên tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê có thể coi như là một chỗ tri âm tri kỷ, “Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp…Biết bao đông bích, điển phần trước sau.” Chỉ nhấp chén rượu để thưởng thức những vị đậm và mùi thơm, vừa ngẫm nghĩ để cho thơ được phần nào thêm lai láng. Cùng nhau phụng sự dưới một triều đại, đôi bạn thân đã cùng nhau chia sẻ nỗi đau khi mất nước, ông cũng cảm thấy bản thân mình bất lực, cam chịu mà nặng nề. Không chỉ dành nỗi tiếc thương cho người bạn đã ra đi mà đây còn là thương cho chính bản thân mình, thương cho mình đã mất đi một người tri kỷ. Nguyễn Khuyến đã mang trong mình cả nỗi đau mất tri kỷ, cả nỗi đau của thời thế:

“Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đã mải lên tiên.”

Sự ra đi mãi mãi của người bạn tri kỷ là một sự mất mát vô cùng lớn đối với ông, một sự thiếu vắng lẻ loi trong cuộc đời của ông.

Bài thơ Khóc Dương Khuê mang một nỗi niềm tiếc nuối vô cùng sâu sắc về một tình bạn tri kỷ đẹp của tác giả, góp phần khẳng định thêm về tình cảm giữa con người và  con người với nhau. Bài thơ đã để lại những cái nhìn cao đẹp về tình bạn tri kỷ cũng như nhân cách vô cùng cao đẹp của Nguyễn Khuyến.

 

 

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết bài Soạn bài củng cố, mở rộng trang 59 trong sách giáo khoa Kết nối tri thức 9 tập 1. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-cung-co-mo-rong-trang-59-sgk-ngu-van-lop-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4140.html

 

Tovább

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (thơ song thất lục bát)| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức

Thông qua bài viết dưới đây, Vui học sẽ gửi đến các em Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (thơ song thất lục bát)| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức. Không chỉ bài phân tích chi tiết ba tác phẩm văn học được viết theo thể loại thơ song thất lục bát mà còn nhằm mục đích giới thiệu đến các em ba bài thơ hay.

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (thơ song thất lục bát)

1. Phân tích bài “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến

Trong kho tàng thơ ca Việt Nam ta đã đi vào lịch sử với nghìn năm đấu tranh dân tộc đã được hình thành nhờ sự đóng góp chất xám của vô số nhà thơ lớn nhỏ. Một trong những nhà thơ lớn trong đó đã đóng góp rất nhiều tác phẩm bất hủ mà ta có thể kể đến chính là nhà thơ Nguyễn Khuyến. Những bài thơ của ông hàm chứa những tình cảm chân thật đẹp đẽ của con người Việt Nam chỉ bằng ngôn ngữ quen thuộc và giản dị. Tiêu biểu nhất trong số đó là bài thơ “Khóc Dương Khuê”.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ tiến sĩ và cùng làm quan dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng sau năm 1884, sau khi đất nước bị thực dân Pháp đóng chiếm Nguyễn Khuyến đã lựa chọn từ quan để về làng. Nhưng Dương Khuê lại khác, ông lựa chọn tiếp tục làm quan dưới thời thực dân Pháp làm tay sai cho bọn thực dân cho đến khi ông qua đời ở tuổi 64. Cái chết đột ngột của Dương Khuê khiến Nguyễn Khuyến rất đau khổ. Bất kể chuyện gì đã phát sinh trước đó, thời điểm đó Nguyễn Khuyến chỉ nghĩ rằng mình đã mất đi một người bạn thân thiết, một tình cảm quý giá không gì có thể thay thế được. Chính bản thân đã hiểu được giá trị không thể đong đếm được của tình bạn này và rồi chính ông đã phải chợt thốt lên:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”

Không phải là một thơ tinh tế, được chau chuốt cẩn thận mà đây chỉ là một nỗi đau không nguôi đầy chân thành. Tiếng “thôi” nghe quen thuộc dân dã và cũng rất tự nhiên, phát ra từ nỗi đau của tác giả. Trong hoàn cảnh xã hội mà người ta luôn đề cao “sự tao nhã” trong văn học, chúng ta lại thấy được một Nguyễn Khuyến luôn dành sự trân trọng cho những thứ chân thực trong cuộc sống đời thường. Dù nói đến cái chết nhưng ông lại sử dụng cách nói giảm nói tránh không dám dùng đến từ “chết” mà lựa chọn cách nhẹ nhàng hơn nhưng lại có phần day dứt hơn đó là ấy nói “thôi đã…thôi rồi” thế là qua rồi, thực sự kết thúc rồi. Vào giờ phút này ông đã mất đi người bạn thân nhất của mình mãi mãi. Người ta lúc mất đi tài sản quý giá nhất, báu vật có ý nghĩa nhất cũng chỉ có thể thốt lên đau đớn đến vậy. Nếu không thực sự cảm thấy đau đớn đến khốn cùng thì làm sao tác giả có thể thoảng thế nói lên tiếng lòng một cách chân thành như vậy. Chỉ là Nguyễn Khuyến không thể hét lên đau đớn, ông chỉ có thể hét một mình trong lòng, khóc thầm với chính mình và ngồi gặm nhấm sự đau đớn không ai thấu. Lúc này ông muốn ngồi một mình, ngồi bên người bạn đã khuất để nhớ về những ngày tháng xa xôi đó có bạn có mình:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước…

Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời.”

Tình bạn này gắn bó kể từ khi họ cùng nhau vào trường thi cử và cùng nhau đỗ đạt làm quan. Hai người tuy quê quán khác nhau, cả tuổi thơ không chút va chạm hay có bất cứ một mối quan hệ nào nhưng may mắn thay, họ chỉ tình cờ thi chung thời điểm và được đồng hành với nhau trong khoảng thời gian dài sau đó. Đọc những lời thơ của Nguyễn Khuyến khiến chúng ta cảm thấy tình bạn thật đơn giản, thật mộc mạc nhưng lại tràn đầy tình yêu thương tôn trọng lẫn nhau. 

“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách…

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.”

Những người bạn cùng chí hướng đã trải qua những ngày vui vẻ thú vị và có tâm hồn cộng hưởng, những niềm vui mà người khác sẽ không thể hiểu được. Tâm hồn nhà thơ như rung động với ký ức, sống lại những ngày “từng gác cheo leo”, nghe tiếng hát của nàng “ả đào”. Họ gặp nhau do duyên số vì ngưỡng mộ lẫn nhau, vì từng chung chí hướng mà tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê đã trở nên thân thiết nhanh chóng:“Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp…Biết bao đông bích, điển phần trước sau.” Họ cùng nhau nhấp một hớp rượu thơm, cùng nhau ngắm cảnh đời để thưởng thức trọn vẹn hương vị và hương thơm đậm đà của tình bạn, của cuộc sống. Hai người bạn thân cùng sống và cống hiến dưới một triều đại, họ cùng chia sẻ nỗi đau mất nước, và cả hai đều bất lực trước hiện thực nghiệt ngã mà dân tộc phải gánh chịu. Nỗi đau của tác giả Nguyễn Khuyến càng lớn hơn khi người bạn thân thiết của ông đã ra đi trước. Không chỉ thương bạn mà ông còn thương chính mình khi phải chịu nỗi đau mất người thân, người tri kỷ, người bạn tâm giao. Nguyễn Khuyến mang cả nỗi đau của cá nhân cùng với nỗi đau của thời đại:

“Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên.”

Sự ra đi không bao giờ quay trở lại của người bạn thân là một mất mát to lớn đối với tác giả Nguyễn Khuyến. Giờ đây cuộc sống của ông sẽ vắng vẻ hơn, cô đơn hơn. Bài thơ “Khóc Dương Khuê” tiếc nuối sâu sắc về tình bạn thân thiết. Qua đó còn giúp người đọc hiểu được tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của tình bạn, giúp ta củng cố tình cảm giữa con người với nhau. Bài thơ thể hiện một cái nhìn đẹp về tình bạn và nhân cách cao đẹp của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức 

2. Phân tích bài “ Hai chữ nước nhà” của Trần Tuấn Khải

“Hai chữ nước nhà” là tác phẩm mở đầu cho cuốn Bút quan hoài I của tác giả Trần Tuấn Khải. Tác phẩm được ông sáng tác vào năm 1926, lấy đề tài lịch sử từ thời quân Minh chiếm đóng nước ta vào thế kỷ XV làm chủ đề chính. Quân giặc đã đánh bại cuộc đấu tranh mà người cha con người anh hùng Nguyễn Trãi làm chủ tướng. Khi Nguyễn Phi Khánh bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã định theo cha nhưng ngay khi đến cùng biên giới phía bắc Nguyễn Trãi đã nghe lời cha mình quay về báo thù cho cha và dân tộc.

Tác giả Trần Tuấn Khải đã trích lời cha khuyên con trai để viết nên một tác phẩm với tinh thần yêu nước sâu sắc và khát vọng độc lập dân tộc. Đoạn trích trong tác phẩm “Hai chữ nước nhà” gồm 36 câu thơ do Trần Tuấn Khải sáng tác năm 1926 và được in trong tập Bút quan hoài I. Trần Tuấn Khải đã ghi lại những sự kiện lịch sử và tấm gương anh hùng dân tộc với mục đích tưởng nhớ và khích lệ lòng yêu nước của các thế hệ sau này. Qua đó còn thể hiện sự tủi nhục của những con người sống trong cảnh áp bức của quân thù, những người bị mất đất đai và qua đó bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của chính tác giả. 

 

Trong lời nói đầu của bài thơ, tác giả nêu rő nguồn cảm hứng của mình xuất phát từ những suy ngẫm về những lời Nguyễn Phi Khánh đã nói với Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc. Từ chi tiết này, có thể thấy “Hai chữ nước nhà” là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện tinh thần yêu nước của nhà văn. Ở phần đầu bài thơ, tác giả gợi lên cảnh tượng đau thương khi quân Minh xâm lược nước nhà. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi cảm như mây u ám, gió u ám, hổ gầm và chim chóc thể hiện nỗi đau của đất nước do nhà Minh cai trị. Núi sông cũng mang nỗi đau như con người. Cả không gian bao la từ phương Bắc đến phương Nam đều chất đầy máu và nước mắt của biết bao người dân Việt Nam. Lời bài thơ đã thể hiện được sự phẫn nộ của người anh hùng khi thất bại và bi kịch mà cha ông ta đã phải đối mặt. Bài thơ chất chứa đầy nỗi buồn, giọng thơ vừa nồng nàn nhiệt huyết vừa buồn bã với chính thực tại. Trước khi ra đi, người cha chỉ kịp gửi cho con tâm tư giao phó cho con một trọng trách lớn lao. Những câu chuyện lịch sử chiến đấu bao đời nay như nhắc nhở và khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tiếp nối truyền thống của cha ông đi trước đã hy sinh vì độc lập của dân tộc trong mỗi chúng ta. Những hình ảnh như lửa cháy và khói, xương rừng và máu sông, pháo đài đổ nát và đất khóc khiến ta như thấy rő hơn trận chiến ác liệt. Trước khi rời đi, người cha nhìn thấy thực tế mà đất nước đang phải chịu đựng và rất đau lòng vì điều đó. Càng yêu đất nước, lo lắng cho mảnh đất quê hương thì nỗi đau mà mỗi người dân phải mang theo càng lớn hơn. Một tiếng kêu với câu hỏi tu từ gợi lên một nỗi đau vô cùng lớn lao “Con ơi! càng nói càng đau/ Lấy ai tế độ đàn sau đó mà”

Bài thơ dường như đầy nước mắt, lời phàn nàn và tiếng khóc. Đây không còn chỉ là lời nói của một người cha đối với con mình mà là lời nói của cả một dân tộc. 

Những dòng cuối bài thơ vừa thể hiện bi kịch của người cha: tuổi già, bệnh tật, sự đọa đày nơi đất khách quê người, nhưng cũng tin rằng người con sẽ báo thù cho cha mình và gánh lấy nợ nước. Lời khuyên cuối cùng dành cho người con là tình yêu đất nước, ghi nhớ lời dặn của tổ tiên để bảo vệ quê hương của mình. “Hai chữ nước nhà” là bài thơ cảm động và có tính nhân văn rất lớn. Bài thơ thể hiện nỗi đau mất nước, đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước của dân tộc, khơi dậy khát vọng độc lập, tự do của dân tộc. Đây không chỉ là lời nói giữa cha con mà là lời nói của quê hương với người Việt Nam trong sự nỗ lực lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp.

3. Phân tích bài “Tiếng đàn mưa” của Bích Khê

Bài thơ “Tiếng đàn mưa” của tác giả Bích Khê đã lựa chọn một ngày mưa để khắc họa những cảm xúc đầy cảm động và sâu sắc. Mỗi khi trời mưa, cảm xúc của con người dường như trở nên nhạy cảm hơn bao giờ hết. Tiếng mưa được kết hợp với những tâm trạng như nỗi nhớ nhung, sự lo lắng và suy ngẫm về cuộc sống. Tác giả đã tái hiện cảnh mưa bằng những câu thơ nhẹ nhàng nhưng lại rất sâu sắc:

"Mưa hoa rụng, mưa hoa xuân rụng

Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan

Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn

Nước non rả rích giọng đàn mưa xuân."

Mưa không quá lớn, rơi xuống đất từng hạt một như những giọt buồn rơi nhẹ nhàng tạo nên cảnh mưa vô cùng sống động và hết sức mộng mơ. Nghe tiếng mưa rơi, chúng ta dường như thấy được tâm hồn thanh thản hơn, dễ rung động hơn:

"Mưa rơi xuống lầu, lại rơi xuống thềm lan

Cùng nước non hoa rụng mưa xuân

Mưa rơi ngoài nội trên ngàn

Nghe trong ý khách giọt đàn mưa rơi."

Những câu thơ tạo nên khung cảnh mưa rơi, những giọt mưa như tiếng đàn dương cầm êm ả nhưng cũng như khóc trong lòng mỗi người. Cảnh mưa trở thành biểu tượng cho sự phức tạp và sâu sắc của tình cảm con người.

"Đầm mưa xuống nẻo đồi mưa xuống

Bóng dương tà rụng bóng tà dương

Hoa xuân rơi với bóng dương

Mưa trong ý khách mưa cùng nước non."

Bài thơ kết thúc bằng những câu thơ diễn tả tình cảm sâu sắc của con người. Mưa chính là nguồn cảm hứng bất tận tạo nên những giai điệu trong lòng người, đánh thức nỗi nhớ và tình yêu thiên nhiên.

"Rơi hoa kết mưa còn rả rích

Càng mưa rơi cánh tịch bóng dương

Bóng dương với khách tha hương

Mưa trong ý khách muôn hàng lệ rơi."

Bài thơ đã thành công nhờ việc tác giả sử dụng thể thơ song thất lục bát kết hợp với ngôn từ đầy tính biểu cảm, tái hiện được hình ảnh mưa và những cảm xúc sâu sắc của con người trước khung cảnh tự nhiên đó. Đây là một tác phẩm nghệ thuật đầy tính biểu cảm và sức sống, khiến người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hòa mình vào cảm xúc của các nhân vật.

 

Qua bài viết trên, Vuihoc đã mang đến cho các em Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (thơ song thất lục bát) Văn 9 tập 1 kết nối tri thức. Hy vọng qua bài viết này các em sẽ có thêm những gợi ý trong đề bài phân tích các tác phẩm văn học được viết theo thể thơ song thất lục bát. Để bổ sung thêm nhiều kiến thức bổ ích với các chủ đề cũng như nội dung khác nhau, các em hãy thường xuyên theo dői các bài viết mới nhất của Vuihoc nhé!

nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-viet-bai-van-nghi-luan-phan-tich-mot-tac-pham-van-hoc-tho-song-that-luc-bat-van-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4139.html

 

 

Tovább

Soạn bài Một thể thơ độc đáo của người Việt| SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Trong bài viết này, VUIHOC sẽ hướng dẫn các bạn cách để soạn bài Một thể thơ độc đáo của người Việt cùng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Kết nối tri thức 9 tập 1 để nắm rő được nội dung và ý nghĩa của bài học, cùng theo dői nhé!

Soạn bài Một thể thơ độc đáo của người Việt SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức 

Nội dung chính văn bản: Văn bản trên giới thiệu về thể thơ nổi tiếng song thất lục bát ( về nguồn gốc, các đặc điểm về hình thức, nội dung, sự phát triển của thể thơ), đồng thời khẳng định rằng đây chính là thể thơ độc đáo và phổ biến của người Việt.

1. Câu 1 Trang 52 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Theo thông tin trong văn bản, thơ song thất lục bát ra đời khi nào?

Câu trả lời chi tiết:

Thể thơ nổi tiếng song thất lục bát được ra đời vào trong khoảng thế kỉ XV - XVI, với hai tác phẩm được sáng tác đầu tiên là tác phẩm Chi Nam ngọc âm giải nghĩa (được sáng tác vào khoảng thế kỷ XV) và tác phẩm Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn (được sáng tác vào năm 1505).

>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức

2. Câu 2 Trang 52 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Đặc điểm nổi bật nào về hình thức giúp thơ song thất lục bát giàu nhạc tính hơn?

Câu trả lời chi tiết:

Đặc điểm nổi bật về hình thức giúp thơ song thất lục bát giàu nhạc tính hơn đó là:

- Những câu thơ có độ dài và ngắn đan xen nhau.

- Mật độ tiếng gieo vần lớn (trung bình mỗi bốn tiếng được thêm một tiếng gieo vần).

- Những câu thơ song thất lục bát luôn phối hợp, gắn kết hài hòa với nhau.

3. Câu 3 Trang 52 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Văn bản trên đã đề cập những điểm tương đồng và khác biệt nào giữa thơ song thất lục bát và thơ lục bát?

Lời giải chi tiết:

Những điểm tương đồng và điểm khác biệt giữa hai thể thơ song thất lục bát và thơ lục bát:

Điểm giống nhau

 

- Điểm tương đồng ở quy luật dùng ngữ thanh điệu và cách gieo vần ở cặp  câu thơ lục bát:

+ Thanh điệu được cố định ở cặp câu lục (các vị trí các tiếng thứ 2,4,6) là thanh bằng - Thanh trắc - bằng và các thanh điệu được cố định ở câu thơ bát (vị trí các tiếng thứ 2,4,6,8) là sự kết hợp của thanh bằng - trắc - bằng - bằng.

+ Vần chân được khéo léo gieo ở cả hai câu, vần lưng được gieo ở mỗi tiếng thứ 6 (hoặc tiếng thứ 4) của câu bát.

 

Điểm khác nhau

Thơ song thất lục bát

- Thể thơ song thất lục bát có thêm cặp câu lục.

- Về thanh điệu của cặp câu lục:

+ Chú trọng những quy chuẩn thanh điệu của các tiếng ở các vị trí lẻ trong mỗi câu thơ.

- Về vần: ở mỗi câu thất đều có cả vần chân và vần lưng. Cứ mỗi 28 tiếng sẽ có bảy tiếng được gieo vần.

 

Thơ lục bát

- Về vần: Trong bài thơ có 28 tiếng, nhưng chỉ có sáu tiếng được gieo vần.

- Không có cặp câu lục.

4. Câu 4 Trang 52 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Theo văn bản ở trên, vì sao thể thơ song thất lục bát vẫn được các nhà thơ sử dụng để sáng tác thơ ở trong thời kỳ hiện đại?

Câu trả lời chi tiết:

Thể thơ song thất lục bát vẫn được các nhà thơ sử dụng để sáng tác  thơ ở trong thời kỳ hiện đại vì:

- Về vẻ đẹp, sức truyền cảm hứng đặc biệt của thể thơ này: Thể thơ song thất lục bát rất giàu tính nhạc điệu, giàu sức biểu cảm, vì vậy giúp cho các nhà thơ dễ dàng truyền tải được những cảm xúc tới người đọc của mình bằng những câu thơ có thể nói là lãng mạn, tinh tế nhất.

- Thể thơ song thất lục bát luôn đem đến những ấn tượng về tình cảm thân thương, yêu mến.

5. Câu 5 Trang 52 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Trình bày những suy nghĩ của em về nhận định của tác giả đối với thể thơ song thất lục bát: “Đó thực sự là một thể thơ đặc sắc mà người Việt đã sáng tạo nên để có thể gửi gắm vào trong đó tâm hồn sâu lắng của mình”.

Câu trả lời chi tiết:

Những nhận định của tác giả đưa ra đối với thể thơ song thất lục bát rất hay và chính xác. Thể thơ này do ông cha ta sáng tạo ra, thể hiện tinh thần sẵn sàng cải biên những gì đã có từ văn học Trung Quốc để tạo ra những cái mới lạ thuộc về bản thân. Thể thơ có sự kết hợp khéo léo của cách ngắt nhịp, gieo vần, những thanh điệu vô cùng hài hòa, nhẹ nhàng và giàu tính nhạc họa, từ đó trở thành một trong những thể thơ đặc sắc nhất, được sử dụng nhiều nhất trong thơ văn văn học Việt Nam. Vì thể thơ này được người Việt tạo ra nên thể thơ này mang đậm bản sắc, cốt cách và tâm hồn của dân tộc ta. Nội dung được truyền tải ở trong thơ song thất lục bát thường là những cảm xúc, những tâm hồn sâu lắng của tác giả với quê hương, đất nước và con người. Đây chính là đặc điểm nổi bật mà ít thể thơ nào có thể có được. Thể thơ này không chỉ phản ánh những tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam mà còn là một biểu tượng của nền văn hóa, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn học Việt Nam. Thể thơ song thất lục bát xứng đáng được trân trọng và tiếp tục phát huy trong nền văn học hiện đại.

 

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết bài Soạn bài Một thể thơ độc đáo của người Việt trong sách giáo khoa Kết nối tri thức 9 tập 1. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

 

NGuồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-mot-the-tho-doc-dao-cua-nguoi-viet-sgk-ngu-van-lop-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4130.html

 

Tovább

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 47| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức


Bài tập Thực hành tiếng Việt trang 47 trong sách Văn 9 tập 1 Kết nối tri thức hứa hẹn mang đến cho học sinh một hành trình khám phá ngôn ngữ đầy màu sắc và thú vị. Đây là cơ hội để các em rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt một cách sáng tạo và hiệu quả, đồng thời củng cố kiến thức về ngữ pháp, chính tả và từ vựng.

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 47 Văn 9 tập 1 kết nối tri thức 

1. Câu 1 trang 47 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức:

“Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ điệp thanh trong các trường hợp dưới đây”

a. Khóc anh không nước mắt

Mà lòng đau như thắt

Gọi anh chửa thành lời

Mà hàm răng dính chặt.

(Hoàng Lộc, Viếng bạn )

- Biện pháp tu từ điệp thanh: Lặp các âm tiết có thanh trắc (khóc, nước, mắt, chửa, dính chặt)

- Tác dụng: Nhấn mạnh nỗi đau tột cùng, niềm tiếc thương vô bờ bến của người phụ nữ khi chồng hy sinh. Thể hiện tâm trạng đau đớn, sầu muộn, tuyệt vọng của người phụ nữ trước mất mát to lớn. Đồng thời khơi gợi sự đồng cảm, thương xót cho người phụ nữ trong hoàn cảnh éo le, bi thương.

b. Ô hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông…

(Bích Khê, Tì Bà )

- Biện pháp tu từ điệp thanh: Lặp lại âm tiết có thanh bằng

- Tác dụng: Nhấn mạnh cảm xúc buồn bã, thương cảm của tác giả trước cảnh sắc mùa thu. Gợi tả không gian mênh mông, bát ngát của mùa thu, tạo cảm giác bao la, rộng lớn. Đồng thời thể hiện sự tinh tế, nhạy cảm của tác giả trước cảnh đẹp thiên nhiên.

c. Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

(Quang Dũng, Tây Tiến )

- Biện pháp tu từ điệp thanh: 3 câu đầu lặp lại thanh trắc, câu cuối lặp lại thanh bằng

- Tác dụng: Nhấn mạnh sự gian khổ, hiểm trở của con đường hành quân, thể hiện tinh thần dũng cảm, kiên cường của người lính Tây Tiến. Gợi tả khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, góp phần làm nổi bật vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của núi rừng. Đồng thời tạo âm điệu thơ dồn dập, thể hiện khí thế hiên ngang, oai hùng của đoàn quân Tây Tiến trong cuộc hành quân.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức

2. Câu 2 trang 48 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức:

“Trong bài thơ Tiếng đàn mưa, biện pháp tu từ điệp thanh được Bích Khê sử dụng rất đặc biệt: điệp thanh theo từng nhóm âm tiết trong cùng một câu thơ. Hãy làm rő tác dụng của biện pháp tu từ này trong bài thơ”.

Tác dụng của biện pháp tu từ điệp thanh trong bài thơ Tiếng đàn mưa:

-  Tạo âm điệu du dương, êm ái: Điệp thanh với nhịp điệu bằng - bằng - trắc lặp đi lặp lại tạo nên âm điệu du dương, êm ái như tiếng mưa rơi.

-  Nhấn mạnh hình ảnh, ý nghĩa: Việc lặp lại các nhóm thanh điệu giúp tác giả nhấn mạnh những hình ảnh, ý nghĩa quan trọng trong bài thơ.

- Gợi cảm xúc: Điệp thanh góp phần gợi lên cảm xúc buồn bã, thương cảm cho tâm trạng của "khách tha hương".  Âm điệu du dương, êm ái cùng với hình ảnh mưa rơi liên tục tạo nên bầu không khí ảm đạm, u buồn.  Nhịp điệu thơ như tiếng lòng thổn thức của "khách tha hương" đang nhớ quê, mong muốn được trở về quê hương.

- Tăng tính biểu cảm: Biện pháp tu từ điệp thanh được sử dụng một cách sáng tạo, kết hợp với các biện pháp tu từ khác như ẩn dụ, so sánh, ... tạo nên tính biểu cảm cao cho bài thơ. Nhờ vậy, tác giả đã thể hiện thành công tâm trạng buồn bã, thương cảm cho "khách tha hương" - một hình ảnh tiêu biểu cho những người phải sống xa quê hương.

3. Câu 3 trang 48 SGK Văn 9/1 kết nối tri thức:

“Chỉ ra và cho biết tác dụng của biện pháp tu từ điệp vần trong đoạn thơ dưới đây”

a.

Rơi hoa hết mưa còn rả rích,

Càng mưa rơi càng tích bóng dương

Bóng dương với khách tha hương

Mưa trong ý khách muôn hàng lệ rơi.

(Bích Khê, Tiếng đàn mưa)

- Biện pháp tu từ điệp vần: “ương” và vần “ich”.

- Tác dụng của biện pháp điệp vần trong câu trên:

+ Tăng tính nhạc điệu cho thơ, góp phần thể hiện tâm trạng buồn bã, thương cảm của "khách tha hương".

+ Nhấn mạnh hình ảnh "bóng dương", "mưa", "lệ rơi" - những biểu tượng cho nỗi buồn tha hương.

+ Gợi tả một cách sâu sắc, tinh tế tâm trạng sầu muộn, cô đơn của người xa quê hương.

b.

Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa

Một buổi trưa, nắng dài bãi cát

Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa

Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát…

(Tố Hữu, Mẹ Tơm)

- Biện pháp tu từ điệp vần: vần “ưa”, “át”

- Tác dụng của biện pháp điệp vần trong câu trên:

+ Tăng tính nhạc điệu cho thơ, góp phần thể hiện cảm xúc vui sướng, háo hức của tác giả khi được trở về quê hương.

+ Nhấn mạnh hình ảnh "quê hương", "bãi cát", "sóng biển", "tiếng hát" - những biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị của làng quê Việt Nam.

+ Gợi tả một cách sinh động, hấp dẫn khung cảnh quê hương và tâm trạng của tác giả khi được trở về quê mẹ.

Trên đây VUIHOC đã cùng các bạn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 47| Văn 9 tập 1 kết nối tri thức. Bài học này không chỉ giúp học sinh củng cố kiến thức về tiếng Việt mà còn rèn luyện kỹ năng tư duy logic, sáng tạo và khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách hiệu quả. Để học nhiều hơn các kiến thức của các môn học thì các em hãy nhanh tay truy cập và website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!\

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-tieng-viet-trang-47-van-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4129.html

 

Tovább

Soạn bài Tiếng đàn mưa| SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Trong bài viết này, VUIHOC sẽ hướng dẫn các bạn cách để soạn bài Tiếng đàn mưa cùng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Kết nối tri thức 9 tập 1 để nắm rő được nội dung và ý nghĩa của bài học, cùng theo dői nhé!

1. Soạn bài Tiếng đàn mưa l SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1: Trước khi đọc 

1.1 Tìm hiểu đôi nét về tác giả Bích Khê

Tác giả Bích Khê (1916-1946), tên thật là Lê Quang Lương; ông là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam trong thời kỳ tiền chiến. Ngoài bút hiệu Bích Khê, ông còn ký bút hiệu Lê Mộng Thu khi sáng tác ra thơ Đường luật.

Bích Khê sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông là người con thứ chín trong một gia đình nho học có truyền thống yêu nước. Ông nội Bích Khê là Lê Trọng Khanh đã đỗ Cử nhân năm Tự Đức thứ 21 ( tức năm 1868), và làm quan đến chức Viên ngoại lang Viện cơ mật. Trước tình hình nhà Nguyễn bất lực, yếu hèn, từng bước giơ tay đầu hàng thực dân Pháp, ông cáo quan triều đình về nhà, rồi không bao lâu sau ông đã tuẫn tiết, tránh khỏi sự cộng tác với Nguyễn Thân để chống phá phong trào Cần Vương, khi viên quan thân người Pháp này ép ông ra làm Tham biện sơn phòng Nghĩa – Định ( tức Quảng Ngãi – Bình Định). Cha của Bích Khê là Lê Quang Dục, ông cũng đã từng tham gia phong trào Đông Du và các hoạt động đấu tranh của phong trào của Đông Kinh Nghĩa Thục vào hồi đầu thế kỷ 20,

Thuở nhỏ, Bích Khê học tiểu học ở một trưởng ở Phước Lộc và Đồng Hới, học trung học ở Huế, rồi sau đó ra Hà Nội học ban tú tài nhưng nửa chừng thì bỏ dở.

Năm 1931, khi ông 15 tuổi, ông đã biết làm thơ Đường luật, ca trù. Năm 1934, ông cùng người chị ruột tên Ngọc Sương vào Phan Thiết học thêm và mở ra một trường dạy học tư. Năm 1936, chị Ngọc sương bị mật thám của Pháp bắt, trường học phải đóng cửa, sau đó Bích Khê trở lại quê nhà.

Năm 1937, ông mắc phải căn bệnh phổi, sau khi điều trị ổn định, ông trở về và lên sống ở trên núi Thiên Ấn nay thuộc Quảng Ngãi, tiếp sau đó ông lại ngược về xuôi ở trên một chiếc thuyền quanh các ngả Sa Kỳ - Trà Khúc. Năm 1938, ông lại cùng chị gái mình  là Ngọc Sương (khi ấy bà đã được thả) vào lại Phan Thiết mở trường dạy học, nhưng chỉ được vài năm lại bị chính quyền tay sai của Pháp ra lệnh đóng cửa.

Năm 1941, Bích Khê bắt đầu dạy học ở Huế. Năm 1942, bệnh phổi của ông tái phát, ông lại trở về Thu Xà nay thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

Ngày 17 tháng 1 năm 1946, Bích Khê lìa bỏ và rời xa cői đời và cői thơ tại Thu Xà khi ông tròn 30 tuổi.

Trước khi đến với thể loại Thơ mới, một thời gian dài (1931-1936), Bích Khê đã viết những ca trù, thơ Đường luật, và được đăng trên các báo Tiếng Dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới...Sau năm 1937, ông chuyển hẳn sang viết làm "thơ mới" do sự tác động của thơ Hàn Mặc Tử và chịu nhiều ảnh hưởng của nhà thơ nổi tiếng này...

Các sáng tác  nổi bật của Bích Khê bao gồm:

Tinh Huyết ( năm 1939): tác phẩm duy nhất được ra đời khi ông còn sống và rất được những người yêu thơ chú ý đến

Bốn tập thơ và một tập tự truyện được viết dở và chưa được xuất bản, bao gồm:

Tinh Hoa (sáng tác từ năm 1938 đến năm 1944)
Mấy dòng thơ cũ (tập hợp trong khoảng 100 bài thơ đường luật đã được đăng trên các báo từ 1931-1936)

Người lưu giữ những nét thơ của Bích Khê đầy đủ nhất đó là thi sĩ Quách Tấn. Năm 1971, Quách Tấn viết và cho xuất bản cuốn Đời Bích Khê. Năm 1975, ông cho in tập Thơ Bích Khê (Nhà xuất bản Nghĩa Bình, 1988) và tập thơ Bích khê tuyển tập (Hà Nội, 1988)...

1.2 Phần trả lời câu hỏi trước khi đọc văn bản:

Câu hỏi (Trang 46 SGK Ngữ văn lớp 9 Tập 1): Hãy chia sẻ những cảm nhận của em về một âm thanh hoặc một bản nhạc từng khiến em xúc động.

Câu trả lời chi tiết:

Âm thanh mà đã từng khiến cho em cảm thấy xúc động nhất đó chính là lời ru của mẹ. Âm thanh ấy sao thật êm ái, nhẹ nhàng, mà lại du dương đến lạ, từ đó đưa em vào giấc ngủ ngon. Từng lời hát ru mà mẹ hát ra là từng bài ca dao mang trong đó những bài học vô cùng quý giá về những lễ hiếu làm người như: hiếu thảo, lễ phép, kính trọng thầy cô… Lời hát ru êm dịu ấy gắn bó với tuổi thơ bản  thân em cũng như của rất nhiều người, và đã được không ít nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ đưa vào trong những tác phẩm của mình.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 kết nối tri thức

2. Soạn bài Tiếng đàn mưa l SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1: Phần đọc văn bản 

2.1 Em hãy tìm và nêu ra những sự vật, hiện tượng phụ họa cùng với cơn mưa

- Hoa xuân rụng.

- Thềm lan.

- Nước non.

- Ý khách.

- Bóng dương tà.

- Bóng tà dương.

- Khách tha hương.

- Hàng lệ rơi.

2.2 Hãy nêu những nơi mà mưa rơi xuống.

- Lầu.

- Thềm lan.

- Nẻo dặm ngàn.

- Nước non.

- Ngoài nội trên ngàn.

- Đầm, nẻo đồi.

2.3 Nêu các biện pháp tu từ được sử dụng và nhận xét cách sử dụng ấy

- Các biện pháp tu từ được sử dụng:

+ Biện pháp điệp ngữ: “mưa hoa rụng”, “mưa xuống”, “mưa rơi”, “bóng dương”, “mưa trong ý khách”

+ Biện pháp ẩn dụ: “thềm lan”, “giọng đàn mưa xuân”, “bóng tà dương”, “mưa trong ý khách”,…

- Nhận xét về cách sử dụng các biện pháp tu từ:

+ Tác giả đã khéo léo sử dụng rất nhiều các biện pháp tu từ điệp ngữ và ẩn dụ trong bài thơ một cách hợp lý và dễ hiểu.

+ Sử dụng câu từ khéo léo, ý nhị, vừa thể hiện lên nội dung bài thơ rất sâu sắc, vừa làm cho bài thơ nhịp nhàng, bay bổng.

2.4 Theo em, nguyên nhân khiến cho nhân vật “khách tha hương” phải rơi lệ.

- Do người “khách tha hương” thấy được bóng tà hiện lên trong một buổi chiều, nỗi nhớ lại quê hương nên mới rơi lệ.

- Rộng hơn nữa, người “khách tha hương” đã đi xa quê lâu năm được chứng kiến sự xuất hiện của một cơn mưa, và hàng loạt cảnh vật của quê hương hiện ra trong cơn mưa qua tâm tưởng của nhân vật “khách”. Chính vì vậy, người “khách” ấy đã bắt đầu mang trong mình cảm xúc bồi hồi, xúc động, luôn nhớ nhung về quê hương.

3. Soạn bài Tiếng đàn mưa l SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1: Phần sau khi đọc 

Nội dung chính của văn bản: Bài thơ trên tái hiện lại hình ảnh một chiều mưa xuân êm ả, thơ mộng cùng với tiếng đàn du dương trong cơn mưa. Khi chứng kiến thấy hình ảnh ấy, người khách xa quê cảm thấy bồi hồi, xúc động, sầu đau khi nhớ lại quê hương của mình.

3.1 Câu 1 Trang 47 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Hãy chỉ ra những đặc điểm của thể thơ song thất lục bát được thể hiện trong bài thơ Tiếng đàn mưa.

Câu trả lời chi tiết:

- Bài thơ có sự kết hợp, xen lẫn các cặp câu 7 tiếng với các cặp câu thơ lục bát. Ở trong đó, cặp câu 7 tiếng có vị trí đứng đầu, tiếp sau đó đến cặp câu lục bát.

- Bài thơ kết hợp sự gieo vần ở cả vần chân và vần lưng.

+ Vần lưng: tiếng thứ sáu trong câu lục  vần với tiếng thứ sáu trong câu bát (Ví dụ: ngàn - đàn); tiếng thứ bảy của câu 7 tiếng vần với tiếng thứ năm của câu 7 tiếng liền kề ngay sau nó (VD: rích - tịch).

+ Vần chân: vần chân xuất hiện và được gieo trong cả bài thơ (dương - hương).

- Câu thơ được sắp xếp vị trí ngắt nhịp lẻ trước, chẵn sau (Ví dụ: Mưa hoa rụng,/ mưa hoa xuân rụng)

3.2 Câu 2 Trang 47 SGK Ngữ Văn lớp 7 tập 1 Kết nối tri thức

Em hãy cho biết bố cục của bài thơ gồm mấy phần? Hãy nêu nội dung chính của từng phần.

Câu trả lời chi tiết:

- Bố cục của bài thơ bao gồm 4 phần:

+ Phần số 1: Ở khổ thơ thứ nhất: Những sự vật, hiện tượng cùng xuất hiện trong cơn mưa xuân.

+ Phần 2: Ở khổ thơ thứ hai: Những nơi mà cơn mưa rơi xuống.

+ Phần 3: Ở khổ thơ thứ ba: Hình ảnh cơn mưa rơi trong buổi chiều xuân.

+ Phần 4: Ở khổ thơ cuối: Tâm trạng u sầu của người khách tha hương nơi xứ người.

3.3 Câu 3 Trang 47 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Những từ ngữ nào xuất hiện được tác giả sử dụng nhiều lần ở trong bài thơ? Việc lặp lại những từ ngữ ấy đem đến những tác dụng gì?

Câu trả lời chi tiết:

- Những từ ngữ xuất hiện được sử dụng nhiều lần ở trong bài thơ:

+ Mưa (hoa).

+ Rụng.

+ Rơi.

+ Xuống.

+ Nước non.

+ Ý khách.

+ Bóng dương

- Tác dụng của việc lặp lại những từ ngữ ấy:

+ Nhấn mạnh rő những hành động, trạng thái khác nhau của cơn mưa mùa xuân và hình ảnh của cảnh vật trong mưa.

+ Làm hiện rő hơn tâm trạng của người khách tha hương khi nhìn vào cơn mưa xuân.

3.4 Câu 4 Trang 47 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Em hãy nêu những đặc điểm chung của những sự vật, hiện tượng xuất hiện và phụ họa cùng cơn mưa trong bài thơ. Theo em, tác giả muốn khắc họa nên nét tâm trạng gì qua những sự vật, hiện tượng ấy?

Câu trả lời chi tiết:

- Những đặc điểm chung của những sự vật, hiện tượng xuất hiện và phụ họa cùng cơn mưa là:

+ Sự xuất hiện của những sự vật, hiện tượng được tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm.

+ Các sự vật, hiện tượng xuất hiện mang ý nghĩa đôi chút mơ hồ, không xác định, hoặc có thể mang nhiều nghĩa (mưa hoa, mưa trong ý khách, bóng dương tà,…).

+ Ở trong mỗi khổ thơ, các sự vật được nhắc đến có quy mô từ nhỏ đến lớn, và sau đó kết thúc bằng xuất hiện của sự vật vô cùng nhỏ/ sự vật vô hình.

+ Các sự vật, hiện tượng đều có cho mình vẻ đẹp rất thơ, tươi tắn, nhưng lại nhuộm cho mình một màu sắc buồn bởi “hàng lệ rơi” xuất hiện ở cuối bài thơ.

- Qua những sự vật, hiện tượng ấy, tác giả muốn khắc họa nên những nét tâm trạng đó là:

+ Tâm trạng say mê, yêu mến ngắm nhìn cảnh cơn mưa rơi.

+ Bồi hồi gợi lên cảm xúc nhớ nhà.

+ Đau đớn, xúc động vì không thể về thăm quê hương, và mong muốn trở về nơi cố hương.

3.5 Câu 5 Trang 47 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa hình ảnh nước non ở ba khổ thơ đầu với nội dung xuất hiện ở hai câu thơ cuối

Câu trả lời chi tiết:

Mối liên hệ giữa hình ảnh nước non ở ba khổ thơ đầu với nội dung xuất hiện ở hai câu thơ cuối:

Ở trong ba khổ thơ đầu, hình ảnh nước non luôn xuất hiện song song cùng với hình ảnh cơn mưa, hiện lên với dáng vẻ hùng vĩ, nên thơ, và vô cùng tươi sáng. Điều này mang ý nghĩa trái ngược hoàn toàn với nội dung ở hai câu thơ cuối, khi “hàng lệ rơi” của người “khách” đã “tắm” cho mình màu một sắc sầu đau, nỗi niềm nhớ nhung cho cả hai câu.

+ Hình ảnh nước non là tiền đề, là ‘‘chất xúc tác” dẫn đến tâm trạng u sầu, nhớ nhà của người khách cố hương. Chính vì nhìn thấy cảnh vật nước non trong mưa, người ‘‘khách” mới bồi hồi, nao nức nhớ lại quê nhà cũ.

3.6 Câu 6 Trang 47 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Em có ấn tượng nhất với sự xuất hiện của điều gì ở bài thơ? Vì sao?

Câu trả lời chi tiết:

- Em ấn tượng nhất với tình cảm yêu, mong nhớ quê hương của người khách tha hương bởi vì:

+ Thứ tình cảm ấy đã bao trùm, trở thành điểm nhấn đặc biệt trong bài thơ.

+ Đây là thứ tình cảm thiêng liêng, vô cùng quý giá mà hầu hết mọi người đang có và phải có.

+ Qua tình cảm yêu và nhớ quê hương của nhân vật trữ tình, em thấy được trong đó một tâm hồn nặng lòng và yêu nhớ với quê hương của nhà thơ Bích Khê.

4. Kết nối phần đọc viết Trang 47 SGK Ngữ Văn lớp 9 tập 1 Kết nối tri thức

Em hãy viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) nêu lên những cảm nghĩ của em về bài thơ Tiếng đàn mưa.

Đoạn văn tham khảo

Bài thơ Tiếng đàn mưa của nhà thơ Bích Khê đã đem đến cho người đọc thật nhiều những cung bậc cảm xúc. Bao trùm xung quanh tác phẩm là nỗi nhớ quê hương da diết của nhân vật “khách” khi ngắm nhìn khung cảnh mưa xuân. Cảnh cơn mưa hiện lên trong bài sao mà đẹp đẽ, nhẹ nhàng, trong trẻo biết bao! Ta thấy sự xuất hiện của một thềm lan, thềm hoa tuôn hoa mưa; những đồng nội bạt ngàn, bao la, căng tràn đầy sức sống trong cơn mưa; một tiếng đàn du dương bay bổng; bóng dương tà im ắng đến lùng; và hình ảnh nước non vô cùng hùng vĩ. Chứng kiến một cảnh vật đẹp như trong tranh vẽ ấy, người cố hương cảm thấy say mê, yêu thích, nhưng rồi lại trầm lắng xuống vì nỗi bồi hồi nhớ quê hương. Sau tất cả, điều đọng lại ở trong tâm trí người đọc lại là “muôn hàng lệ rơi” của người khách tha hương xa nhà. Hàng lệ ấy không chảy theo từng hạt, mà lại được miêu tả là “muôn”, diễn tả lên một sự đau đớn đến xé lòng của người “khách”. Sau khi đọc xong bài thơ, em cũng có cảm giác như mình cũng đang có một nỗi sầu đau, nhưng chỉ biết khóc thầm và nhớ quê hương đến nhường nào! 

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết bài Soạn bài Tiếng đàn mưa trong sách giáo khoa Kết nối tri thức 9 tập 1. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-tieng-dan-mua-sgk-ngu-van-lop-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4128.html

 

 

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek