Szolgáltató adatai Help Sales ÁSZF Panaszkezelés DSA

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Qua bài viết dưới đây, Vuihoc sẽ mang đến cho các em Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Bài soạn này sẽ bao gồm phương pháp để phân tích một tác phẩm thơ và có hai bài phân tích chi tiết tác phẩm thơ “Khóc Dương Khuê” của tác giả Nguyễn Khuyến cho các em tham khảo.

 

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ Văn 9 tập 1 Cánh diều

Đề bài: Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến 

1. Lập dàn ý phân tích một tác phẩm thơ

Các bước lập dàn ý phân tích một bài thơ:

a) Chuẩn bị:

  • Đọc thật kỹ đề bài được đưa ra và xác định rő ràng các yêu cầu của đề bài.

  • Đọc lại tác phẩm cần phân tích

  • Tìm hiểu sơ lược về thể thơ mà tác phẩm đã sử dụng

  • Tìm hiểu về bối cảnh sáng tác và tác giả

  • Chú ý xác định lại chính xác nội dung mà tác phẩm muốn nói đến là gì

  • Xác định hình thức nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ và tìm ra ý nghĩa của việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật đó.

b) Tìm ý chính và lập dàn ý chi tiết

  • Bối cảnh của tác phẩm, đề tài và chủ đề chính của bài thơ là gì?

  • Nội dung của bài thơ có gì đặc sắc?

  • Nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ có gì đặc sắc?

  • Các biện pháp nghệ thuật đã góp phần giúp cho bài thơ nổi bật như thế nào?

  • Qua bài thơ, người đọc rút ra được nội dung gì và bài học như thế nào trong cuộc sống của chính mình?

  • Có thể học được điều gì từ tác phẩm thơ đó?

Dàn ý phân tích tác phẩm Khóc Dương Khuê của tác giả Nguyễn Khuyến được sắp xếp theo bố cục ba phần:

- Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khuyến

  • Giới thiệu khái quát về nhân vật chính Dương Khuê

  • Nói về cội nguồn của tình bạn giữa hai người để người đọc thấy được lý do nỗi buồn của tác giả.

- Thân bài:

  • Bối cảnh sáng tác của tác phẩm

  • Sự kiện nào đã diễn ra khiến cho tác giả có cảm xúc mãnh liệt đến thế.

  • Nguồn cảm xúc nào đã khiến tác giả viết ra bài thơ này

  • Chủ đề chính của bài thơ mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc

  • Phân tích nội dung của từng đoạn thơ và các biện pháp nghệ thuật có trong đó để biểu đạt rő ràng nội dung của tác phẩm

  • Lựa chọn thêm một số tác phẩm tương tự để làm nổi lên nội dung của “Khóc Dương Khuê” hoặc so sánh với các tác phẩm khác của tác giả Nguyễn Khuyến nhằm thấy được sự khác biệt trong việc sử dụng nghệ thuật trong tác phẩm này của tác giả.

- Kết bài

  • Khẳng định lại một lần nữa tình bạn đẹp đẽ của tác giả Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. Qua đó nhấn mạnh lại nỗi đau của tác giả khi mất đi người bạn thân thiết tri kỷ nhất

  • Khái quát nội dung của tác phẩm

  • Nêu lại những biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng và phân tích ý nghĩa của chúng.

  • Nói lên cảm nghĩ của bản thân mình và những tác động mà tác phẩm Khóc Dương Khuê đã mang lại cho người đọc.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2. Bài viết tham khảo 1

Trong kho tàng văn học của dân tộc Việt Nam ta, nhà thơ Nguyễn Khuyến chiếm một vị trí huy hoàng khi ông nắm trong tay rất nhiều tác phẩm có giá trị to lớn về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Ông là nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ xuất sắc chứa đựng trong đó những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam được thể hiện bằng tiếng Việt trong sáng, giản dị và không kém phần thanh lịch.

Có thể nói tình bạn của Nguyễn Khuyến với Dương Khuê tuy rất đẹp nhưng lại không phải là một tình bạn trọn vẹn. Dù cùng nhau đỗ cử nhân, cùng khoa thi, cùng đỗ tiến sĩ và cùng làm quan dưới triều Nguyễn nhưng sau năm 1884, khi mà năm đất nước thực sự mất vào tay thực dân Pháp thì Dương Khuê lại lựa chọn con đường trái ngược với Nguyễn Khuyến. Ông không từ quan về làng mà Dương Khuê lại tiếp tục làm quan cho chính quyền thực dân cho đến tận khi qua đời vào năm 1902, ở tuổi 64. Tuy không còn cùng chí hướng, không còn thân thiết với nhau nhưng cái chết đột ngột của Dương Khuê vẫn là một nỗi đau lớn đối với Nguyễn Khuyến. Lúc đó quên đi tất cả sự xa cách, anh chỉ biết một điều: anh đã mất đi một người bạn thân, một tình cảm quý giá không gì có thể thay thế được. Lúc ấy, từ tận đáy lòng, từ một tình bạn mà dường chính ông không thể hình dung hết được sự quý giá, Nguyễn Khuyến chợt thốt lên:

Bác Dương thôi đã, thôi rồi,

Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.

Trong hai câu thơ gần như không có chút biện pháp nghệ thuật nào, không được chau chuốt câu từ nhưng nó lại là cảm xúc chân thật nhất của Nguyễn Khuyến. Nhất là ở dòng thơ đầu tiên chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành và trọn vẹn được bật ra bằng lời nói. Tiếng “thôi” được lặp lại hai lần rất giản dị và tự nhiên như xuất phát từ tâm hồn của một người nông dân chất phác bình dị. Câu thơ này xuất hiện trong một xã hội mà "sự cao nhã" là yếu tố được coi là yêu cầu cơ bản của văn học, chúng ta càng thấy được sự chân thành của nhà thơ với người bạn của mình. Khi nhắc tới cái chết, ông không dám dùng đến chữ “chết” mà chỉ lặp lại “thôi đã, thôi rồi”. Nhưng dù đau đớn đến tột cùng thì Nguyễn Khuyến vẫn không hề khóc lên tiếng, không gào thét mà nén tiếng khóc vào trong lòng mình, trong tâm trí của mình. Không cần ồn ào cho mọi người biết mà lúc này ông chỉ muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, hồi tưởng về tình bạn của họ, cùng bạn ôn lại những chuyện đã xảy ra giữa hai người. Có rất nhiều kỷ niệm giữa họ nay đã trở nên xa xôi hơn bao giờ hết:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời

Đó là kỷ niệm lần đầu tiên họ gặp nhau ở khoa thi Hương và cả hai đều thi đậu. Nguyễn Khuyến quê Bình Lục, Hà Nam còn Dương Khuê quê Vân Đình, Hà Đông.  Hai người hoàn toàn không có chút liên kết nào, không hề quen biết nhau. Ấy vậy mà, tựa như số mệnh trời ban, tình bạn bắt đầu lại được bắt đầu từ thời điểm đó. Từng câu, từng chữ mà Nguyễn Khuyến sử dụng thật giản dị, thật gần gũi. Có “lúc sớm hôm”, xưng hô "tôi bác" rồi lại “cùng nhau”…Dường như nhà thơ cũng xác định được tình bạn của hai người ngay từ cái nhìn đầu tiên. Với giọng điệu chân thành như vậy, nhà thơ gợi lên những ký ức khác:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Kỷ niệm của hai người quả thực rất nhiều, rất sâu đậm. Họ đã có những khoảng thời gian ý nghĩa bên nhau, họ chính là những người bạn có cùng chí hướng, cùng chia sẻ những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống. Nhớ lại những kỷ niệm ấy, tâm hồn người viết vẫn xúc động trước tiếng suối “róc rách lưng đèo” ở nơi “dặm khách” xa xôi. Nhà thơ dường như lên cỗ máy thời gian, trải qua lại lần nữa cảm giác phấn khích khi ở “nơi từng gấc cheo leo”, cùng nhau lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của những người nông dân. 

Đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến hay với đa số nhà thơ khác, những tiếng hát tiếng đàn từ các ả đào là nơi họ có thể cảm nhận và thưởng thức sự đẹp đẽ của giai điệu và ngôn từ. Nguyễn Khuyến không có những bài thơ nói về chủ đề này nhưng hiển nhiên ông không thể quên tiếng đàn đó, không quên được những lúc chính ông trút hết tâm hồn mình theo tiếng đàn hát. Là đôi bạn thân thiết gần như làm gì cũng có nhau, gắn bó với nhau, ngưỡng mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thực sự là giao thoa của những tâm hồn đồng điệu: 

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,

Chén quỳnh tương ấm áp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Khi nói về việc uống rượu với bạn bè, nhà thơ dùng từ “nhấp”. Đây là động từ rất chính xác và tinh tế, bởi khi nói về việc uống rượu thì ông chỉ “uống cho vui”, chứ không phải là uống cho say hay uống vì nghiện cồn. Nhà thơ đã từng nói về khả năng uống rượu của mình trong tác phẩm Thu ẩm:

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè.

Những chiếc cốc mà ta dùng để uống rượu thời xa xưa thường rất nhỏ hay được gọi là “chén hạt mít”. Người uống rượu mà “nhấp” có nghĩa là uống thành từng ngụm nhỏ, như vừa chạm vào môi đã dừng, vừa uống vừa suy nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức hương vị đậm đà mà thơm cay của rượu. Uống rượu nhưng lại “ấm áp bầu xuân”. Bầu xuân chính là bầu rượu và cũng là "bầu thơ", bầu rượu càng đầy đặn thì bầu thơ càng ý nghĩa. Uống rượu để mua vui, để tìm sự liên kết nhưng cũng có những khi hai người chọn uống để giải sầu. Đó là khi họ gặp cảnh mất nước, là khi hai nhà nho dưới cùng một triều đại, hai người bạn cùng chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đấu thăng chẳng dám than trời

Bác già, tôi cũng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!

Bốn câu thơ trên Nguyễn Khuyến đã viết với tâm trạng buồn bã, chán nản. “Buổi dương cửu” ám chỉ thời kỳ hỗn loạn khi thực dân Pháp xâm lược đánh chiếm nước ta. Nhà thơ coi đây như một vận mệnh mà đất nước và tất cả người dân Việt Nam phải chấp nhận trải qua. Không thể làm gì trước tình cảnh này, nhà thơ Nguyễn Khuyến chỉ còn một lựa chọn từ bỏ chức vụ và rời xa chốn quan trường để bảo vệ chí hướng của mình. Nhà thơ lựa chọn cuộc sống yên bình an phận nhưng nghe có vẻ đau đớn. Ông cảm thấy bất lực đặc biệt ở câu thơ cuối có đến ba từ “thôi” lặp lại lại liên tiếp bổ sung cho nhau, tạo ấn tượng về một sự cam chịu rất nặng nề. Tuy biết thôi nhưng lại thôi và rồi vẫn là thì thôi. Đây chính xác là tâm trạng của nhà thơ khi về quê. Ông buồn vì đất nước mất nhưng lại không thể làm được gì cho đất nước ngoài việc từ chức để không làm việc cho giặc.

Qua 16 câu thơ, Nguyễn Khuyến đã gợi lại ký ức của bản thân và đầy đủ về tình bạn giữa hai người cùng chí hướng Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. Đặc biệt là khẳng định được độ sâu sắc và bền vững của tình bạn này. Ký ức của nhà thơ được gợi lên một cách giản dị nhưng đầy sự tiếc nuối và trân trọng. Nhớ lại những kỷ niệm ấy, ông lại lần nữa suy ngẫm về tình bạn này, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật sự không thể tin được. Ông chưa bao giờ tưởng tượng được sự mất mát to lớn này  lại có thể ập đến vào thời điểm đó:

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác

Trước ba năm gặp bác một lần

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Về phương diện nghệ thuật thì bốn dòng thơ trên thực ra không phải là những câu thơ ấn tượng hay đặc sắc  bởi những dòng thơ này khá đời thường. Đây chính là những câu nói thường ngày với “tuổi già thêm nhác”, rồi “hỏi hết xa gần"  hay “tinh thần chưa can”. Giọng thơ này đậm chất làng quê, đúng như lời nói của một ông nông dân chân chất của quê hương Hà Nam. Đúng là Nguyễn Khuyến không làm văn mà dường như ông chỉ bày tỏ tâm trạng của mình. Thậm chí, nhà thơ còn tự lý luận với chính mình:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác

Tôi lại đau trước bác mấy ngày

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!

Chỉ khi con người thực sự đau khổ mới có lý lẽ như vậy. Chẳng khác gì Nguyễn Khuyến hỏi tại sao mình không phải người chết trước, tại sao mình lại phải chịu nỗi đau này khi rő ràng ông lớn tuổi hơn người bạn của mình. Chính từ những lý lẽ ấy mà những lời cuối cùng của bài thơ hiện lên đầy chân thành và ai oán: 

Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua.

Chết là một quy luật tự nhiên mà không ai có thể cưỡng cầu được. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến lại tìm ra sự phi lý của cuộc đời khi cái chết của bạn mình xảy ra quá nhanh. Ngay lập tức nó cướp đi một người bạn tốt của ông và vì thế cũng cướp đi mọi niềm vui của ông. Bài thơ của ông viết về cảm xúc của chính mình, viết về trường hợp của các nhân mình tưởng chừng như đơn giản nhưng lại vang lên sự thật về tình bạn chân chính trong cuộc sống:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Trong hai dòng thơ, chữ “không” xuất hiện năm lần như nhấn mạnh nỗi buồn không thể nào tả được. Không còn bạn bè, không còn ham muốn uống rượu, vì không còn ai để chia sẻ hương vị thơm ngon của rượu. Không bạn bè, ông không tìm được hứng thú để làm thơ:

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

Hai câu thơ là câu hỏi nhưng hỏi cũng có nghĩa là nói “không”. Nếu thơ được viết ra mà không ai có thể thưởng thức hay đồng cảm với nó thì tại sao lại viết nó? Ông thấy tình bạn giữa mình và Dương Khuê cũng chính là sự tri kỷ về tâm hồn cho nên sự mất mát đối với ông sau cái chết của Dương Khuê chính là sự mất mát khi mất đi một nửa hiểu mình:

Giường kia treo cũng hững hờ

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

Sự mất mát này có thể bù đắp được không? Nhà thơ đã lập tức trả lời bằng câu khẳng định nhưng lại là chữ “không”. Cách duy nhất, như mọi người thường làm chính là tìm cách tự an ủi mình. Rằng người chết không thể sống lại được nữa, những giọt nước mắt thương xót sẽ chẳng ích gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng lẽ thường tình này của cuộc sống để an ủi chính bản thân mình:

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

Nhà thơ tự khuyên nhủ bản thân đừng khóc bởi ông biết ở độ tuổi này thì nước mắt có rất ít, cùng lắm chỉ như giọt sương mỏng manh, làm sao buộc nước mắt phải chảy thành hai dòng? Nhưng cũng chỉ là nói thế thôi vì bản thân nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” và càng hiểu rő hơn rằng hai hàng nước mắt trào ra từ khóe mắt lúc đó không phải do ông ép buộc cơ thể tạo ra mà trong mỗi câu thơ của ông đều chứa đựng đầy nước mắt. Đây là nước mắt của nỗi đau tột cùng, của tình bạn cao đẹp. 

Có thể nói trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện những tình cảm đẹp đẽ, chân thành nhưng cho đến nay, chưa có bài thơ nào về tình bạn có thể so sánh được với bài thơ “Khóc Dương Khuê” của tác giả Nguyễn Khuyến. Vẻ đẹp của bài thơ này trước hết đến từ tình bạn đẹp và chân thành của hai tâm hồn cao thượng. Vẻ đẹp này còn là vẻ đẹp của nghệ thuật diễn đạt, của ngôn ngữ diễn đạt giản dị, tự nhiên, mang đậm chất vùng miền, hoàn toàn phù hợp với nội dung tình cảm và cảm xúc mà nhà thơ muốn thể hiện ra cho người đọc hiểu được.

3. Bài viết tham khảo 2 

Từ lần đầu gặp nhau trong kỳ thi Hương, Nguyễn Khuyến và Dương Khuê đã lập tức trở thành hai người bạn vô cùng thân thiết và thấu hiểu nhau. Họ cùng làm quan dưới thời nhà Nguyễn vào thời điểm đất nước đang có nhiều biến động khiến giới trí thức đương thời vừa bất lực lại chán nản. Càng trải qua nhiều kỷ niệm và đủ cung bậc cảm xúc khiến cho hai người lại càng hiểu và gần gũi nhau hơn. Sự gắn bó của đôi  tri kỷ này thực sự hiếm có trong đời người. Vì vậy, khi nghe tin Dương Khuê qua đời vì bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Khuyến đã vô cùng bàng hoàng và đau buồn vì giờ đây không còn một người nào có cùng suy nghĩ giống ông. Họ là những người bạn tâm giao, tri kỷ mà ông có thể chia sẻ tất cả những cảm xúc cá nhân trong cuộc sống của mình. Nguyễn Khuyến viết bài thơ Khóc Dương Khuê để bày tỏ sự tiếc thương cho người bạn đã khuất.

Dương Khuê sinh năm 1839 mất năm 1902 với tên tự là Giới Như và hiệu Vân Trì. Ông là một người học rất giỏi, cùng khóa với Nguyễn Khuyến, lấy bằng tiến sĩ năm 1868 rồi làm quan cùng thời Nguyễn Khuyến. Nhưng cuộc đời làm quan của cả hai ông lại trải qua nhiều thăng trầm bấp bênh. Gặp thời đất nước mất vào tay thực dân, triều chính thay đổi nên Dương Khuê từ chức ở tuổi 58 và nghỉ hưu để cống hiến hết mình cho rượu, thơ ca và ca hát. 

Mở đầu bài thơ là sự bàng hoàng, hoang mang của Nguyễn Khuyến khi biết về cái chết đột ngột của người bạn Dương Khuê:

"Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta."

Nguyễn Khuyến gọi bạn mình bằng đại từ nhân xưng “Bác Dương" rất gần gũi, thân mật, đồng thời còn thể hiện tình cảm vô cùng trân trọng, trìu mến của bạn bè đồng trang lứa. Cách gọi này giống với lúc Dương Khuê còn sống và hai người thường xuyên nói chuyện với nhau. Cụm từ “thôi đã thôi rồi” ở câu thơ đầu tiên đã lặp lại liên tiếp từ “thôi”. “Thôi” thứ nhất đã thể hiện sự tiếc nuối, buồn bã khi ông nhận ra mình đã đánh mất điều quan trọng nhất trong cuộc đời của mình. Còn “thôi” thứ hai là ẩn ý về sự ra đi của Dương Khuê. Nỗi đau mất đi người bạn này thật đau đớn và khiến ông buồn bã. Người ra đi nhẹ nhàng không vấn vương nhưng lại khiến người ở lại dằn vặt và buồn bã vô cùng. Nỗi đau này không chỉ ở trong tâm hồn tác giả mà giống như nước chảy, mây trôi, lan rộng đến tận cùng trái đất. 

Giọng điệu ở hai dòng đầu nhẹ nhàng, tĩnh lặng nhưng mang lại cảm giác buồn bã, thể hiện rő hơn nỗi đau mất đi người bạn thân của Nguyễn Khuyến.

Trong sự mất mát to lớn này, Nguyễn Khuyến dần nhớ lại khoảng thời gian họ ở bên nhau, cùng nhau chia sẻ vui buồn:

"Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;

Có khi tầng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Phận đấu thăng chẳng dám tham trời"

Hãy nhớ đến ngày đầu tiên hai người gặp nhau và cùng nhau vượt qua kỳ thi, cùng nhau “sớm hôm” bàn về chuyện đời chuyện người. Đây chính là mối quan hệ tình bạn thân thiết của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến. Hai người họ luôn tôn trọng nhau, yêu mến, thấu hiểu lẫn nhau và đối xử với nhau trước sau như một. Việc gặp gỡ và trở thành tri kỷ của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến rất ngẫu nhiên nhưng lại rất vững bền, giống như thiên mệnh đã định sẵn. Đó chính là mối quan hệ trăm năm chỉ có một lần, không hề dễ dàng. Đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn vô tận, Nguyễn Khuyến lại quay trở về những năm tháng huy hoàng của tuổi thanh xuân bên người bạn quá cố. Đâu rồi những tháng ngày ta còn trẻ khỏe, rong chơi khắp chốn xa xôi, leo núi trèo đồi nghe tiếng suối róc rách và những ngày lặng lẽ trên gác xép dốc. Họ cùng nghe các ả đào hát ca, cùng nhớ những ngày đêm bên nhau với chén rượu thơm quý, cùng nhau làm thơ, cùng nhau ngâm thơ, rồi tỉ tê trò chuyện qua lại. Rồi có những ngày cùng nhau vào học đường nghiên cứu Tam Phần, Ngũ Kinh để hiểu đạo lý của người xưa. Để rồi, suốt quãng đời còn lại, họ cùng nhau thi cử, cùng nhau làm quan phục vụ triều đình, và dù mũ quan trên đầu có nặng trĩu, dù thời thế loạn lạc và nhiều lý do bất đồng quan điểm nhưng cả hai vẫn cùng nhau vượt qua để trở lại làm người bạn tâm giao với nhau. Chia sẻ, thấu hiểu và cùng nhau vượt qua nhưng không hề phàn nàn về bất cứ điều gì. Biết bao kỷ niệm đẹp tựa như mới hôm qua mà nay mỗi người một thế giới. Người còn nhưng người còn lại đã về chốn Tây Phương. Nguyễn Khuyến càng nghĩ mà càng buồn bã hơn.

Khi còn trẻ, là lúc ông có sức mạnh và ý chí kiên cường. Nhưng đến lúc tuổi già, mọi thứ không còn như xưa nữa chỉ có tình cảm tri kỷ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vẫn không thay đổi dù vì thời gian có trôi đi. Hai người càng trở nên gắn bó và gần gũi nhau hơn:

"Bác già, tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần;

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can"

Khi già đi, sức lực hao mòn, những thú vui của tuổi trẻ dần trở thành thứ xa xỉ. Tuy nhiên, dù xa nhau về khoảng cách, dù đã lâu không gặp nhưng tình bạn thân thiết vẫn ngự trị mãi trong lòng Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, không bao giờ nguội lạnh. Họ vẫn thân thiết như xưa, vẫn có thể nắm tay nhau hỏi han chuyện gần xa. Dường như tất cả những câu chuyện đã lâu không được sẻ chia với ai đều được bộc lộ trong lần gặp mặt cuối cùng này, khi thấy người bạn của mình vẫn khỏe mạnh. Thấy bạn mình khỏe mạnh bình an là niềm hạnh phúc vô bờ bến của những người tri kỷ. Có thể thấy, dù đã già, không gặp nhiều lần nhưng Nguyễn Khuyến vẫn giữ được tình cảm sâu sắc này và luôn nhớ về người bạn thời xưa thường xuyên chia sẻ tâm tư, cùng chung một câu chuyện. Ký ức càng gợi nhớ, càng đẹp thì tác giả lại càng phải đối mặt với hiện thực phũ phàng và đau đớn khi những giấc mơ ngày xưa đã vĩnh viễn biến mất. Nguyễn Khuyến buộc phải đối mặt với hiện thực rằng người bạn Dương Khuê của mình đã ra đi mãi mãi. Ông đã thực sự đã mất đi người bạn quý giá nhất trong đời để giờ đây chỉ còn lại thân xác già nua cô độc trong thời loạn lạc.

"Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày;

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời"

Ông không khỏi buồn và tiếc nuối vì sao Dương Khuê rő ràng nhỏ hơn mình, ốm muộn hơn mình nhưng không hiểu sao lại vội vã đi trước. Lúc nhận được tin tức này Nguyễn Khuyến bị sốc và ngay lập tức tay chân rã rời vì không thể tin được tin dữ ập đến với mình lại như sét đánh ngang tai. Giờ đây người bạn tốt đã trở về miền cực lạc, để lại Nguyễn Khuyến một mình như một ông già cô đơn với nỗi đau, thất vọng và hoang mang vô cùng:

"Ai chẳng biết chán đời là phải,

Vội vàng sao đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa;

Giường kia treo những hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn."

Người bạn tốt của anh đã phải ra đi đã chết và Nguyễn Khuyến chỉ còn lại một mình với sự cô đơn và trống rỗng, không còn thèm muốn những thú vui nồng nàn một thời. Lúc này rượu ngon đã trở nên vô vị, thú vui làm thơ dần trở nên nhàm chán vì không còn người thấu hiểu để cùng chia sẻ, thưởng thức. Tình bạn thân thiết, gắn bó này được ví như những câu chuyện kinh điển của người xưa như tình bạn giữa Trần Phồn - Từ Trĩ hay như Tử Kỳ và Bá Nha,...

Trở lại với hiện thực, đối mặt linh hồn của người quá cố, Nguyễn Khuyến cuối cùng cũng thoát khỏi ký ức xa xôi và trở về hiện thực đầy đau thương. Nhưng dù Dương Khuê có chết đi thì tình yêu giữa hai người vẫn luôn trường tồn mãi mãi, là điều quý giá nhất trong cuộc đời mà Nguyễn Khuyến luôn trân trọng:

"Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!"

Nỗi đau này không thể hóa thành những giọt nước mắt dài vì Nguyễn Khuyến đã giấu nó sâu trong lòng, để mãi mãi nhớ về một người bạn tri kỷ. Những dòng cuối cùng là buông bỏ nhẹ nhàng và buồn bã, tâm hồn nhà thơ đành phải chấp nhận sự ra đi của người bạn của mình. Thôi đành hẹn kiếp sau lại trở thành tri kỷ của mình, kiếp này coi như vận mệnh của mình đã kết thúc. 

“Khóc Dương Khuê” là bài thơ cảm động, sâu sắc được Nguyễn Khuyến viết để tưởng nhớ người bạn đã khuất, qua đó ta thấy được những tình cảm quý báu, nồng nàn, sâu sắc giữa những người bạn thân, đồng thời ca ngợi sự thiêng liêng của tình trăm năm có một này. Với thể thơ song thất lục bát kết hợp với giọng thơ êm đềm, chậm rãi và ngôn ngữ giản dị tác giả lại càng tinh tế hơn khi lựa chọn sử dụng những câu chuyện lịch sử để góp phần làm tăng sức hấp dẫn của bài thơ và thể hiện thành công nỗi buồn của chính mình.

 

Qua bài viết trên, Vuihoc đã mang đến cho các em Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Hy vọng qua bài viết này các em sẽ có thêm những gợi ý và hướng dẫn trọng điểm cho tác phẩm, giúp các em hiểu tác phẩm một cách chi tiết hơn. Để bổ sung thêm nhiều kiến thức bổ ích với các chủ đề cũng như nội dung khác nhau, các em hãy thường xuyên theo dői các bài viết mới nhất của Vuihoc nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-phan-tich-mot-tac-pham-tho-van-9-tap-1-canh-dieu-4283.html

 

Tovább

Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Bài viết dưới đây chính là Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ| Văn 9 tập 1 Cánh diều mà Vuihoc gửi đến các em. Hy vọng qua bài soạn này các em sẽ mường tượng ra cảnh chia ly của đôi lứa cũng như sự xót xa của những người chinh phụ.

 

1. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Chuẩn bị 

Đọc trước văn bản Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; tìm hiểu thêm thông tin về tác giả Đặng Trần Côn và tác phẩm Chinh phụ ngâm.

- Tác giả Đặng Trần Côn: Đến tận ngày nay, những thông tin về nhà thơ Đặng Trần Côn đều rất ít và mơ hồ. Năm sinh năm mất của ông không có nhà sử học nào có thể xác nhận, họ chỉ có thể ước đoán ông sinh vào khoảng thời gian từ năm 1710 đến năm 1720.

  • Quê hương gốc của ông ở làng Nhân Mục - làng Mọc thuộc Thanh Trì. Ngày nay chính là phường Nhân Chính quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

  • Ông là người ham học, lại có tư chất thông minh nên ông đỗ Giải Nguyên trong kỳ thi Hương (năm 1726 đến năm 1738). Nhưng đến kỳ thi Hội thì ông không vượt qua nên từ đó ông không tham gia các kỳ thi nữa. 

  • Vào những năm 1740 đến năm 1786, ông làm chức Huấn đạo một huyện. Sau này chính là Tri huyện Thanh Oai thuộc thành phố Sơn Tây. Đến sau khi nghỉ hưu thì ông dạy học tại nhà ông Nguyễn Đình Kỷ.

  • Vào khoảng năm 1745, chưa đến 40 tuổi ông đã ra đi và được chôn cất tại làng Nhân Mục - nay là tổ dân phố 5 phường Hạ Đình.

-  Tác phẩm Chinh phụ ngâm:

  •  Tác phẩm Chinh phụ ngâm là một khúc ngâm của tác giả Đặng Trần Công viết vào năm 1741. Bản gốc do ông viết bằng chữ Hán, đến sau này mới có nhiều người dịch ra tiếng Nôm và tiếng quốc ngữ.

  • Bản dịch hiện nay nổi tiếng nhất được thể hiện bằng thể thơ song thất lục bát. Cả tác phẩm có 412 câu thơ.

  • Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong sách giáo khoa là 20 câu thơ từ dòng 208 đến dòng 228. Đoạn này nói về cảnh chia ly của cặp vợ chồng son, khi mà người vợ phải tiễn chồng ra nơi chiến trường. Đó còn là cảnh hào hùng của người lính cũng như sự xót xa với cảnh chết chóc tang thương trên chiến trường. Người vợ ở nhà vừa cô đơn buồn tủi lại lo lắng cho chồng mình cũng như khát khao về tương lai hạnh phúc khi chồng được trở về với gia đình.

2. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Đọc hiểu 

2.1 Chú ý cách diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ

Cách diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ đã gợi được cảm giác cô đơn đến buồn tủi. Qua đó còn thể hiện nỗi sầu khổ đau xót của người chinh phụ.

2.2 Nỗi lòng người chinh phụ đã được biểu hiện thế nào qua việc tả cảnh?

- Tác giả đã thể hiện được nỗi lòng của người chinh phụ qua những câu thơ tả cảnh

  • “Sương như búa, bổ mòn gốc liễu”

  • “Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô” 

Các câu thơ trên kết hợp với những động từ “bổ mòn”, “xẻ héo”,...đã khiến người đọc có cảm giác đau thương do chia lìa và hiu quạnh khi thấy xung quanh toàn sương mờ, bụi chim gù, tiếng dế, tiếng chuông,...

2.3 Hình ảnh gắn bó giữa “hoa” và “nguyệt” thể hiện điều gì?

Hình ảnh gắn bó giữa “hoa” và “nguyệt” đã thể hiện được sự gắn bó mật thiết và sự hài hòa trong tự nhiên. Qua đó càng thể hiện được sự cô đơn hiu quạnh của người chinh phụ trong đêm tối mờ mịt.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

3. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Trả lời câu hỏi cuối bài 

3.1 Câu 1 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

 Xác định bố cục của đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, cho biết nội dung chính của từng phần.

- Có thể chia đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thành ba phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến đoạn “tiếng trùng mưa phun” - Đoạn đầu này nói về nỗi nhớ thương chồng ở nơi xa của người chinh phụ.

  • Phần 2: “tiếng trùng mưa phun” đến “gió thốc ngoài hiên” - Sự cô đơn của người chinh phụ khi phải sống cô độc một mình.

  • Phần 3: “gió thốc ngoài hiên” đến hết - nói về khát vọng về một tương lai tươi sáng khi chồng trở về, hy vọng về hạnh phúc lứa đôi được trọn vẹn.

3.2 Câu 2 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Đoạn trích được viết theo thể thơ nào? Chỉ ra sự phù hợp của thể thơ ấy trong việc thể hiện nội dung đề tài ở văn bản này.

Đoạn trích được viết theo thể thơ cổ song thất lục bát: Thể thơ song thất lục bát đã thể hiện được chi tiết nội dung mà văn bản muốn nói đến. Qua thể thơ này, người đọc thấy được từng câu từng chữ như có nhạc điệu, hấp dẫn hơn và đem lại nhiều cảm xúc hơn bao giờ hết. Nhất là khi người đọc đi sâu vào trong thế giới nội tâm nhân vật và hiểu được rő cảm xúc của họ.

3.3 Câu 3 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Nỗi lòng người chinh phụ được thể hiện như thế nào? Đâu là nguyên nhân dẫn đến tâm trạng ấy?

Nỗi lòng của người chinh phụ được thể hiện rő ràng nhất là sự buồn tủi, cô đơn mà đau đớn khi xa chồng. Nhưng đó cũng là sự khát khao một tương lai tươi sáng hơn được hạnh phúc lâu bền.

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tâm trạng của người chinh phụ chính là do người chồng phải đi ra chiến trường xa xôi để chiến đấu.

3.4 Câu 4 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Hãy phân tích mối quan hệ giữa cảnh vật và tâm trạng của người chinh phụ trong phần cuối (từ dòng 9 đến dòng 20).

Dường như có một sự tương đồng giữa con người và cảnh vật trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, điều đó đã khiến cho nỗi buồn càng trở nên mãnh liệt và trở nên vô tận không hồi kết. Khung cảnh xung quanh của người chinh phục trở thành khung cảnh u buồn bởi cảnh được nhìn qua đôi mắt buồn rưng rưng nước mắt. Sự cô đơn buồn tủi của tâm hồn càng làm tăng thêm sự lạnh lẽo u ám của cảnh vật xung quanh. Cùng một giọt sương trên cành cây, cùng tiếng côn trùng trong đêm mưa gió, những cảnh vật ấy càng làm cháy lên biết bao giông bão nỗi buồn trong lòng của người chinh phục. Hoàn cảnh này, tâm trạng này chính nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​xưa. Thiên nhiên lạnh giá dường như hút lấy tâm hồn người chinh phục cô đơn bằng cái lạnh khủng khiếp cả về thể xác lẫn tâm hồn. Tám câu cuối là miêu tả độc đáo nhất về cảnh tình trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Sự hòa hợp của hoa và trăng càng làm cho lòng người khao khát hạnh phúc hôn nhân đôi lứa. Những động từ như dãi, lồng gợi lên  ngọn lửa gần gũi, yêu thương say đắm nhưng lại nhạy cảm và kín đáo của tình yêu đôi lứa.

3.5 Câu 5 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phân tích tác dụng các biện pháp tu từ, nhịp điệu của thể song thất lục bát trong văn bản Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

Các biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản Tinh cảnh lẻ loi của người chinh phụ:

- Gieo vần: Trong mỗi khổ thơ đều được sử dụng một vần trắc cùng với ba vần bằng. Ở câu sáu chỉ có vần chân, ba câu còn lại sẽ chứa cả vần chân và vần lưng trong mỗi câu.

- Cách ngắt nhịp: Tại các câu bảy có thể được ¾ hoặc theo cách chia 3/2/2. Còn hai câu sáu tám có thể ngắt nhịp 2/2/2 hoặc 3/3. Còn tại câu tám thì linh hoạt chia thành 4/4 hoặc ⅗.

- Các biện pháp tu từ:

  • Phép so sánh “sương” với “búa”,...

  • Phép ẩn dụ qua từ “nghìn vàng”,...

  • Hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng cao như “hoa”, “nguyệt”,...

  • Điệp từ: “non yên”, “trời”,...

  • Những từ láy xuất hiện liên tục: “thăm thẳm”, “đau đáu”,...

Việc sử dụng các biện pháp tu từ kết hợp với nhịp điệu có phần chậm rãi của thể thơ song thất lục bát đã khiến cho đoạn thơ trở nên sinh động hơn bao giờ hết. Sự tinh tế trong cách sử dụng nghệ thuật trong các câu thơ khiến cho người đọc có thể dễ dàng thấy được sự đau buồn, cô đơn và nỗi lòng của người chinh phụ khi chồng mình phải ra chiến trường chiến đấu mà không biết ngày nào mới có thể quay về.

3.6 Câu 6 trang 23 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Đoạn trích gợi cho em suy nghĩ như thế nào về số phận những người phụ nữ trong cuộc chiến tranh phi nghĩa?

Qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, người đọc có thể thấy được sự cô độc, lẻ loi của những người phụ nữ có chồng ra chiến trường trong xã hội phong kiến cũ.

Qua đó ta càng có sự đồng cảm với con người thời đó cũng như thấy được sự phê phán của tác giả trước chế độ cũ. Tác giả đã tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến cho người người nhà nhà phải ly tán, họ phải hy sinh hạnh phúc của mình để chiến đấu cho mục đích vô nghĩa ác độc.

 

Trên đây VUIHOC đã cùng các bạn Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Để có thêm nhiều các kiến thức không chỉ với môn Văn và cả các môn học khác, các em hãy thường xuyên truy cập và website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-doc-hieu-tinh-canh-le-loi-cua-nguoi-chinh-phu-van-9-tap-1-canh-dieu-4282.html

 

Tovább

Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Bài viết dưới đây chính là Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh| Văn 9 tập 1 Cánh diều mà Vuihoc gửi đến các em. Hy vọng qua bài soạn này các em sẽ hiểu hơn về tác phẩm Phò giá về kinh và thấy được nhiệm vụ của thế hệ trẻ với nước nhà.

 

1. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh: Chuẩn bị

Đọc trước văn bản Phò giá về kinh; tìm hiểu thêm thông tin về Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. 

- Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải

+ Trần Quang Khải sinh ngày 24 tháng 8 năm 1241 và mất ngày 26 tháng 7 năm 1294.

+ Ông được Trần Thái Tông phong tước Chiêu Minh Vương từ khi còn nhỏ. Ông được học với Bảng nhãn Lê Văn Hưu - Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu.

+ Trần Quang Khải là một nhà quân sự, nhà chính trị và là tôn thất hoàng gia Đại Việt trong thời nhà Trần.

+ Ông giữ chức vụ cao nhất là Thừa tướng thời vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông. Trần Quang Khải đã phò tá vua, trông coi mọi việc của nước nhà.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh: Đọc hiểu 

Chú ý các chiến thắng lịch sử và việc sử dụng động từ mạnh

- Các chiến thắng lịch sử được nhắc đến trong bài thơ là trận Chương Dương và trận Hàm Tử.

- Các động từ được lựa chọn để sử dụng trong bài như “cướp”, “bắt”,... Những từ này đã thể hiện được khí thế hùng mạnh của quân dân ta trong tất cả các trận chiến đấu.

3. Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh: Trả lời câu hỏi cuối bài 

3.1 Câu 1 trang 20 SGK Văn 9/1 Cánh diều 

Hãy trình bày bối cảnh ra đời văn bản Phò giá về kinh của Trần Quang Khải.

Văn bản Phò giá về kinh của Trần Quang Khải được viết vào khoảng thời gian sau chiến thắng Chương Dương Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285 khi ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và nhà vua Trần Nhân Tông về thành Thăng Long hay chính là thủ đô Hà Nội ngày nay.

3.2 Câu 2 trang 20 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Xác định đặc điểm thể loại của bài thơ (số chữ, số dòng, niêm, luật và cách hiệp vần ở bản phiên âm bài thơ…)

- Đặc điểm thể loại của bài thơ:

+ Mỗi bài thơ gồm bốn dòng thơ, mỗi dòng thơ gồm năm chữ.

+ Câu thơ thứ nhất, hai và bốn hoặc chỉ câu thơ thứ hai và thứ bốn sẽ hợp vần bằng chữ cuối câu.

3.3 Câu 3 trang 21 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Trình bày nội dung của hai dòng thơ đầu và hai dòng thơ cuối, từ đó cho biết chủ đề của bài thơ.

- Nội dung của hai dòng thơ đầu dành để nói về trận thắng trận quan trọng của toàn bộ quân sĩ và nhân dân nước ta.

- Nội dung của hai dòng thơ cuối chính là khát vọng của tất cả người con Việt Nam về một tương lai tươi sáng, một đất nước độc lập và hòa bình.

- Qua nội dung trên, chủ đề chính của bài thơ chính là hào khí ngút trời về quyết tâm chiến thắng kẻ thù cũng như khát khao một đất nước hòa bình, dân tộc phát triển.

3.4 Câu 4 trang 21 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Tìm hiểu cách ngắt nhịp của bài thơ ở bản phiên âm bài thơ. Nhịp điệu của các dòng thơ có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung bài thơ?

- Cách ngắt nhịp ⅔.

- Nhịp điệu ⅔ của các dòng thơ có tác dụng quan trọng trong việc thể hiện nội dung bài thơ. Qua nhịp thơ này đã nhấn mạnh được chiến công lẫy lừng của quân dân nhà Trần trong các trận chiến với giặc ngoại xâm. Chính nhờ vậy mà người đọc có thể thấy được khát vọng hòa bình cũng như tự nhận thấy trách nhiệm của mỗi người con Việt Nam trong công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước.

3.5 Câu 5 trang 21 SGK Văn 9/1 Cánh diều

So sánh bài thơ trên với bài thơ Sông núi nước Nam để chỉ ra sự tương đồng về nội dung và hình thức nghệ thuật giữa hai tác phẩm.

- Điểm tương đồng về tác phẩm Phò giá về kinh và Sông núi nước Nam:

  • Cùng thể thơ tứ tuyệt - gồm bốn câu thơ.

  • Nội dung của cả hai tác phẩm đề thể hiện được tình yêu nước, khát vọng hòa bình độc lập.

  • Ý thơ ngắn gọn mà xúc tích, nhấn mạnh nội dung tác giả muốn nói đến.

- Điểm khác biệt giữa tác phẩm Phò giá về kinh và Sông núi nước Nam:

  • Tác phẩm Phò giá về kinh: nói đến hai chiến công lừng lẫy của dân tộc thời nhà Trần là chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử. Chính nhờ các chiến công này đã khẳng định được sự mạnh mẽ của dân tộc, của đất nước.

Tác phẩm Sông núi nước Nam: là lời khẳng định hùng hồn về chủ quyền của dân tộc, của sự chiến thắng và quyết tâm vì chính nghĩa.

=> Hai bài thơ còn khác nhau về hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng sáng tác và thời gian sáng tác.

3.6 Câu 6 trang 21 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Bài thơ ra đời từ rất lâu nhưng nội dung vẫn có ý nghĩa với cuộc sống hiện nay như thế nào? Vì sao?

Bài thơ đã ra đời từ rất lâu nhưng nội dung vẫn có ý nghĩa quan trọng với cuộc sống hiện nay bởi đây chính là lời cổ vũ tinh thần, khẳng định lòng yêu nước cùng với ý chí chiến đấu đầy kiên cường. Đây chính là một khúc khải hoàn ca cho toàn bộ người dân Việt Nam chứ không phải dành riêng cho thời đại nào, vùng đất nào hay tầng lớp nào.

 

Qua bài viết trên, Vuihoc đã mang đến cho các em Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Phò giá về kinh Văn 9 tập 1 Cánh diều . Hy vọng qua bài soạn chi tiết này các em sẽ có thêm những gợi ý và cái nhìn đa chiều cho tác phẩm. Qua đó giúp các em hiểu tác phẩm một cách chi tiết hơn. Để bổ sung thêm nhiều kiến thức văn học với các chủ đề cũng như nội dung khác nhau, các em hãy thường xuyên theo dői các bài viết mới nhất trên website vuihoc.vn nhé.

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-doc-hieu-pho-gia-ve-kinh-van-9-tap-1-canh-dieu-4259.html

 

 

Tovább

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 18| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Những kiến thức về chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ luôn là một vấn đề cần được chú ý và quan tâm bởi những tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ Văn thường có sự xuất hiện của ba loại chữ này. Bởi vậy, hãy cùng VUIHOC Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 18| Văn 9 tập 1 Cánh diều để nắm được chi tiết hơn nhé!

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 18 Văn 9 tập 1 Cánh diều 

1. Câu 1 trang 18 SGK Văn 9/1 Cánh diều 

Trong những tác phẩm sau đây, tác phẩm nào viết bằng chữ Hán, tác phẩm nào được viết bằng chữ Nôm và tác phẩm nào được viết bằng chữ Quốc ngữ?

Trả lời:

Viết bằng chữ Hán

- Sông núi nước Nam

- Nhật kí trong tù

- Hịch tướng sĩ

Viết bằng chữ Nôm

- Quốc âm thi tập

- Truyện Lục Vân Tiên

- Truyện Kiều - 

Viết bằng chữ Quốc ngữ

-Tuyên ngôn Độc lập

- Lão Hạc

- Tắt đèn

- Dế Mèn phiêu lưu kí

2. Câu 2 trang 19 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Tìm cách diễn đạt phù hợp ở bên B và giải thích tại sao cách diễn đạt ấy lại phù hợp với mỗi loại tác phẩm được nêu ra ở bên A.

Lời giải:

a- 1 và 2 vì viết bằng chữ Hán cần phải có phiên âm sang chữ quốc ngữ để có thể hiểu từ đó và dịch được nghĩa sang tiếng Việt nhằm hiểu bài thơ

b- 3 vì chữ Nôm chỉ cần được chuyển thành chữ quốc ngữ để có thể hiểu nghĩa

3. Câu 3 trang 19 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Hãy tìm thêm một vài ví dụ về những trường hợp sau trong chữ Quốc ngữ:

Trả lời:

a. Trường hợp sử dụng một chữ cái khác nhau để ghi cùng một âm: ghi âm /z/ bằng những chữ r, d.

b. Trường hợp sử dụng một chữ cái để ghi nhiều âm khác nhau: sử dụng chữ i vừa để ghi âm /i/ vừa để ghi cho âm /i:/

c. Trường hợp ghép nhiều chữ cái để có thể ghi một âm như là ng, ngh, tr, th…

4. Câu 4 trang 19 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Viết một đoạn văn (độ dài khoảng 6 – 8 dòng) trình bày những suy nghĩ của em về thuận lợi trong quá trình học chữ Quốc ngữ và sử dụng chữ Quốc ngữ để viết được những tên riêng nước ngoài, những thuật ngữ khoa học có nguồn gốc từ nước ngoài.

Lời giải:

Đoạn tham khảo 1:

Chữ Quốc ngữ là một danh từ chung, để chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn như chữ Nôm cũng là một chữ Quốc ngữ của nước ta ở trong một thời kỳ, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết mà chúng ta sử dụng ngày nay. Chữ này thoạt đầu do những vị giáo sĩ phương Tây truyền đạo tại Việt Nam, họ lấy mẫu tự La Tinh, ghép lại để có thể ghi âm địa danh và những nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua nhiều thời kỳ hình thành cho tới ngày nay. Khác với nhiều hệ thống ngôn ngữ ở trên thế giới, với 29 âm trong đó bao gồm 11 nguyên âm, 17 phụ âm, 1 bán nguyên âm và 5 thanh điệu (sắc, hỏi, huyền, ngã, nặng) đã làm cho tiếng Việt càng thêm trầm bổng linh hoạt với giai điệu và tiết tấu vô cùng sinh động đầy nhạc tính. So với chữ Hán và chữ Nôm là kiểu chữ tượng hình thì chữ Việt theo hệ chữ latinh vô cùng phù hợp trong việc viết những tên nước ngoài hoặc các thuật ngữ khoa học…

>> Xem thêm: Soạn văn 9 Cánh diều 

Đoạn tham khảo 2:

Học chữ Quốc ngữ và sử dụng được chữ Quốc ngữ là một lựa chọn rất phù hợp của dân tộc Việt. Người học chữ Quốc ngữ sẽ được cấp cho nguyên liệu đó là 29 ký tự và họ sẽ được thỏa sức sáng tạo với những mô hình lắp ghép những ký tự rời rạc ấy. Với bất kỳ mô hình lắp ghép đúng đắn nào của những ký tự Latin, chữ Quốc ngữ đều có thể được dễ dàng phát âm một cách chuẩn xác theo đúng những quy ước mà ký tự đó mô phỏng âm thanh tự nhiên tiếng Việt. Đại bộ phận người dân Việt Nam đã có thể từng bước tiếp cận đến sách vở, nguồn cung cấp tri thức hữu ích dành cho nhân loại, cũng như với báo chí, nguồn thông tin được cập nhật hằng ngày, để dần thoát khỏi đời sống u tối và trì trệ mà giai cấp thống trị luôn muốn duy trì.

Đoạn tham khảo 3:

Trong thời đại của sự tiếp xúc và giao lưu, việc hội nhập trở thành một đòi hỏi vô cùng bức thiết. Dù rằng không phải lúc nào cũng được nhìn nhận một cách khách quan, trong thực tế, chữ Quốc ngữ đã góp một phần đáng kể trong việc kéo gần hơn khoảng cách Việt Nam với thế giới, với xu thế ngày một phát triển kỹ thuật công nghệ của thời đại. Bằng sự gia nhập vào cộng đồng những nước sử dụng đến hệ chữ cái Latin, chữ Quốc ngữ giúp cho việc hiểu những thuật ngữ quốc tế, và đặc biệt là phiên chuyển tên riêng tiếng nước ngoài thành tiếng Việt theo hình thức để nguyên dạng đảm bảo được tính chính xác cũng như tính khoa học; giúp cho việc xác định những nhân danh và địa danh đó đích xác và dễ dàng hơn.

 

VUIHOC đã hướng dẫn chi tiết phần Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 18| Văn 9 tập 1 Cánh diều qua bài viết phía trên.  Từ bài soạn, hy vọng các em có thể hiểu được khái niệm, đặc điểm và vai trò của chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Ngoài bài soạn phía trên ra, nếu muốn tham khảo về nhiều bài soạn văn khác hoặc những bài soạn khác của môn học khác thì em hãy nhanh tay truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC đó là vuihoc.vn để đăng ký ngay cho mình khoá học thật nhanh chóng và được nghe giải đáp trực tiếp từ thầy cô giáo có trình độ và chuyên môn cao của VUIHOC nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-thuc-hanh-tieng-viet-trang-18-van-9-tap-1-canh-dieu-4196.html

 

 

Tovább

Soạn bài Khóc Dương Khuê| Văn 9 tập 1 Cánh diều


Dưới đây là phần soạn bài Khóc Dương Khuê| Văn 9 tập 1 Cánh diều vô cùng chi tiết và dễ hiểu. Tác phẩm chính là một bài thơ thể hiện được nỗi tiếc nuối sâu sắc của nhà thơ đối với người bạn của mình. Đồng thời cũng khẳng định một tình bạn tri kỷ - một thứ tình cảm giữa người với người.

1. Soạn bài Khóc Dương Khuê: Chuẩn bị 

– Khi đọc hiểu văn bản thơ song thất lục bát, các em cần phải chú ý đến điều gì?

– Đọc trước văn bản Khóc Dương Khuê, tìm hiểu thêm những thông tin về nhà thơ Nguyễn Khuyến và nhà thơ Dương Khuê (1839-1902).

Trả lời:

- Khi đọc hiểu văn bản thơ song thất lục bát, em cần chú ý đến cách ngắt câu, ngắt nhịp và cách gieo vần.

- Tìm hiểu về văn bản Khóc Dương Khuê cùng với nhà thơ Nguyễn Khuyến và nhà thơ Dương Khuê:

* Nhà thơ Nguyễn Khuyến:

- Nguyễn Khuyến (1835-1909) lấy hiệu là Quế Sơn, lúc nhỏ lấy tên là Nguyễn Thắng.

- Sinh ra ở quê ngoại - xã Hoàng Xá (nay là xã Yên Trung), huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định.

- Lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội - làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, thuộc tỉnh Hà Nam.

- Ông xuất thân ở trong một gia đình nhà nho nghèo.

- Năm 1864, ông được đỗ đầu kì thi Hương. Mấy kì sau thi tiếp nhưng trượt, đến năm 1871, ông đỗ đầu cả thi Hội lẫn thi Đình → Do đỗ đầu cả ba kì thi cho nên Nguyễn Khuyến được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ

- Tuy đỗ đạt cao nhưng ông chỉ được làm quan hơn mười năm, còn phần lớn cuộc đời của ông là đi dạy học và sống thanh bạch tại quê nhà.

- Nguyễn Khuyến là một người tài năng, có cốt cách thanh cao và có tấm lòng yêu nước thương dân, từng bày tỏ thái độ rất kiên quyết không hợp tác với chính quyền thực dân Pháp.

- Sáng tác của Nguyễn Khuyến bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng khá lớn, hiện còn trên 800 bài bao gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu vẫn là thơ.

- Những tác phẩm: Quế Sơn thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Yên Đổ thi tập, Cẩm Ngữ, cùng với rất nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế và câu đối truyền miệng.

- Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là một nhà thơ trào phúng vừa là một nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng của Lão Trang và triết lý Đông Phương.

- Thơ chữ Hán của ông hầu như đều là thơ trữ tình.

→ Có thể nói trên cả hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều rất thành công.

- Nội dung: thơ Nguyễn Khuyến nói về tình yêu quê hương đất nước, gia đình và bè bạn; phản ánh cuộc sống của những con người vô cùng khổ cực, thuần hậu và chất phác; châm biếm, đả kích với thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời cũng bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân và với nước.

- Đóng góp nổi bật của Nguyễn Khuyến dành cho nền văn học dân tộc chính là mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê và thơ trào phúng. 

* Nhà thơ Dương Khuê:

- Dương Khuê (1839 – 1902) là người làng Vân Đình, tổng Phương Đình, thuộc tỉnh Hà Đông (nay là Ứng Hòa, Hà Nội).

- Ông đỗ tiến sĩ vào năm 1868, làm quan tới chức Tổng đốc Nam Định, Ninh Bình. Ông là bạn của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

2. Soạn bài Khóc Dương Khuê: Đọc hiểu 

2.1 Chú ý vào cách sử dụng từ ngữ thể hiện tình cảm của nhà thơ Nguyễn khuyến

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản sau đó tìm từ ngữ biểu cảm

Lời giải chi tiết:

Tác giả đã sử dụng từ “thôi” và “nước mây man mác” để thể hiện cảm xúc vô cùng đau đớn và tiếc thương trước sự ra đi của người bạn thân. Từ “thôi” còn giống như một phép nói tránh rằng chưa muốn chấp nhận sự thật là bạn đã mất

2.2 Nhà thơ nhắc về những kỉ niệm gì với bạn, theo trình tự như thế nào?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản, chú ý vào các từ ngữ thể hiện thời gian

Lời giải chi tiết:

- Nhà thơ nhắc về những kỉ niệm: từ thuở đăng khoa sớm hôm cạnh nhau, khi từng gác cheo leo, có khi soạn câu văn, nghe con hát cầm xoang, khi chơi nơi dặm khách nghe tiếng suối, cùng uống rượu, cùng nhau chung hoạn nạn…

- Trình tự: hồi tưởng theo dòng cảm xúc thời gian

>> Xem thêm: Soạn văn 9 Cánh diều 

2.3 Nỗi đau mất bạn của tác giả đã được thể hiện như thế nào? 

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản từ câu 25 tới câu 35

Lời giải chi tiết:

Nỗi đau mất bạn đã được thể hiện thông qua sự ngỡ ngàng, bàng hoàng và chân tay rụng rời như không tin được vào những điều mà mình nghe được. Đó là cảm giác bất ngờ, đau đớn khi bị mất đi một người tri âm, tri kỉ

2.4 Chú ý vào vai trò của những điển cố, điển tích được sử dụng 

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ phần chú thích

- Đưa ra những nhận xét

Lời giải chi tiết:

Những điển cố, điển tích “giường treo” và “đàn kia” nói tới những tình bạn khắc cốt ghi tâm, nổi danh kim cổ tại Trung Quốc. Qua đó, nói ngắn gọn nhưng lại có thể bày tỏ hết ra những tâm tư và cảm xúc ẩn sâu trong Nguyễn Khuyến khi mất bạn, không còn có người tâm giao.

2.5 Nhà thơ đã tự an ủi mình ra sao khi bạn mất?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn câu thơ từ 35 cho đến hết

Lời giải chi tiết:

Nhà thơ đã tự an ủi bản thân rằng bạn mình dù có van xin cũng chẳng thể nào ở lại và sinh lão bệnh tử cũng là việc tất yếu, “tuổi già hạt lệ như sương”, không còn quá nhiều nước mắt để khóc cho bạn, chỉ biết nỗi đau sâu thẳm trong lòng.

3. Soạn bài Khóc Dương Khuê: Trả lời câu hỏi cuối bài 

3.1 Câu 1 trang 18 SGK Văn 9/1 Cánh diều 

Chỉ ra những đặc điểm của thể thơ song thất lục bát thông qua bài Khóc Dương Khuê?

Phương pháp giải:

Đọc kỹ văn bản cùng với kiến thức về thơ song thất lục bát

Lời giải chi tiết:

Trong 2 câu có 7 chữ: chỉ cần chữ thứ 3, 5 và 7 phải tuân theo đúng niêm luật.

Trong câu có 6 chữ: chỉ cần chữ thứ 2, 4 và 6 thực hiện theo đúng như niêm luật.

Trong câu có 8 chữ: chỉ cần chữ thứ 2, 4, 6 và 8 tuân theo đúng niêm luật.

Những chữ còn lại có thể lựa chọn thanh bằng hay trắc tùy ý, chỉ cần làm sao đọc nghe xuôi tai là được.

Thơ song thất lục bát sẽ bao gồm 4 câu được đi liền với nhau, trong đó có hai câu 7 tiếng (câu thất 1 với câu thất 2), tiếp đến là câu lục với câu bát.

Luật vần trong câu lục và bát hoàn toàn giống với thơ lục bát. Còn đối với 2 câu thất thì luật thanh sẽ không phải ở các từ 2-4-6 giống như những thể thơ khác, thay vào đó là cần phải chú ý vào những tiếng 3-5-7.

· Câu thất 1: những tiếng 3-5-7 cần theo thứ tự là T-B-T

· Câu thất 2: những tiếng 3-5-7 cần theo thứ tự là B-T-B

· Các tiếng 1-2-4-6 còn lại sẽ được tự do về thanh.

Nếu như ở những thể thơ khác chỉ gieo vần ở thanh bằng, thì thơ song thất lục bát lại được gieo vần ở cả thanh bằng và trắc. Tiếng thứ 7 trong câu thất 1 thanh trắc sẽ được vần với tiếng thứ 5 của thanh trắc trong câu thất 2.

Tiếng thứ 7 trong câu thất 2 thanh bằng sẽ vần với tiếng thứ 6 trong câu lục kế.

3.2 Câu 2 trang 18 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Sự kiện tạo ra được nguồn cảm xúc để Nguyễn Khuyến viết ra bài thơ là gì? Sự kiện đó chi phối bố cục của bài thơ ra sao? Cho biết ý chính trong mỗi phần theo bố cục ấy?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản sau đó tìm hiểu thêm về hoàn cảnh sáng tác

Lời giải chi tiết:

- Sự kiện: sự ra đi của người bạn thân nhất của ông chính là nhà thơ Dương Khuê

- Bố cục và ý chính:

Phần 1 (bao gồm hai câu thơ đầu): Nỗi đau khi nghe thấy tin bạn mất.

Phần 2 (từ câu 3 tới câu 22): Những kỉ niệm của tình bạn thông qua dòng hồi tưởng của tác giả.

Phần 3 (đoạn còn lại): Sự đau đớn và hụt hẫng khi quay trở lại và đối diện với hiện thực.

3.3 Câu 3 trang 18 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Tình cảm của Nguyễn Khuyến được thể hiện ra sao trong hai dòng thơ đầu khi nghe thấy tin bạn mất?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ 2 dòng thơ đầu tiên, tìm ra các từ chỉ trạng thái và cảm xúc

Lời giải chi tiết:

Nỗi đau đớn khi nghe được tin bạn qua đời: sử dụng đến điệp ngữ “thôi” với mức độ biểu cảm rất cao, sử dụng những từ láy “man mác” và “ngậm ngùi” để diễn tả tâm trạng đau đớn, buồn bã trước sự ra đi đột ngột của người bạn đồng niên

3.4 Câu 4 trang 18 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Những kỉ niệm nào về tình bạn đã được tác giả hồi tưởng ra sao và theo trình tự nào ở trong đoạn thơ từ dòng 3 tới dòng 22?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản từ dòng 3 tới dòng 22

Lời giải chi tiết:

- Những kỉ niệm tình bạn đẹp đẽ:

+ Thuở đăng khoa, sớm hôm cùng nhau.

+ Kính yêu, khác đâu duyên trời.

+ Cùng nhau trải qua biết bao khoảng thời gian quý báu: lúc chơi nơi dặm khách, lúc rượu ngon cùng nhắp,  khi từng gác cheo leo, khi bàn soạn câu văn.

+ Cùng nhau trải qua biết bao gian khó và biến cố cuộc đời: buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn và phận đẩu thăng chẳng dám tham trời.

- Trình tự thời gian và dựa theo dòng cảm xúc hồi tưởng

3.5 Câu 5 trang 18 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Hãy phân tích tâm trạng của nhà thơ được diễn tả ở trong đoạn thơ từ dòng 23 cho đến hết?

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ văn bản

- Đưa ra phân tích và nhận xét

Lời giải chi tiết:

Nỗi trống vắng khi bạn mình mất đã được biểu hiện thông qua những hình ảnh:

+ Chân tay rụng rời: nỗi đau tinh thần bỗng chuyển hóa thành nỗi đau về thể xác.

+ Rượu ngon không có bạn hiền hay câu thơ nghĩ đắn đo không viết, viết đưa ai và ai biết mà đưa: không còn người tri âm, tri kỉ và không có người thấu hiểu.

+ Giường kia treo cũng hững hờ, đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn: vật còn nhưng người đi, đồ vật trở nên thật vô tri.

Biện pháp tu từ:

+ Phép điệp từ liên hoàn, điệp từ vòng tròn: Không mua không phải không tiền không mua hay Viết đưa ai, ai biết mà đưa.

+ Thủ pháp đối lập giữa cái còn với cái mất, vật còn nhưng người đã đi xa  

+ Sử dụng thể thơ song thất lục bát, thể thơ rất quen thuộc của ngâm khúc nhằm bày tỏ cảm xúc da diết và quặn thắt.

3.6 Câu 6 trang 18 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Phân tích tác dụng của một vài biện pháp tu từ nổi bật có trong bài Khóc Dương Khuê.

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ văn bản

- Đưa ra phân tích và nhận xét

Lời giải chi tiết:

- Cách nói giảm, nói tránh: Bác Dương thôi đã thôi rồi!, nhằm làm giảm đi nỗi mất mát đau thương.

- Biện pháp nghệ thuật nhân hóa: Nước mây man mác. Nhằm diễn tả sự ra đi của người bạn cũng khiến cho đất trời thương xót.

- Biện pháp so sánh: Tuổi già giọt lệ như sương.

- Các câu hỏi tu từ ở trong đoạn cuối của bài thơ. Hàng loạt những câu thơ như: Làm sao bác vội về ngay; Vội vàng sao đã mải lên tiên, ... hay Để rồi lắng đọng trong những câu thơ hụt hẫng, chơi vơi:

- Cách sử dụng đến lối liệt kê: Có lúc, có khi, cũng có khi… nhằm tái hiện lại những kỉ niệm về tình bạn thân thiết cùng tấm lòng của nhà thơ đối với bạn.

3.7 Câu 7 trang 18 SGK Văn 9/1 Cánh diều

Bài thơ Khóc Dương Khuê đã giúp cho em có thêm những nhận thức gì về tình bạn ở trong cuộc sống. 

Phương pháp giải:

- Đọc kĩ văn bản

- Đưa ra lời nhận xét từ câu chuyện của tác giả.

Lời giải chi tiết:

- Bài thơ đã giúp cho em nhận thức được thứ tình cảm đáng quý và thiết tha sâu nặng giữa những người tri kỷ, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng những thứ tình cảm thiêng liêng cao quý này.

 

Phần Soạn bài Khóc Dương Khuê Văn 9 tập 1 Cánh diều trên đây sẽ giúp các em tìm hiểu về các nhà thơ nổi tiếng thời xưa cùng với sự tồn tại của tình bạn tri kỷ, thứ tình cảm quý giá giữa con người với con người. Ngoài bài soạn phía trên ra, nếu muốn tham khảo về nhiều bài soạn văn khác hoặc những bài soạn khác của môn học khác thì em hãy nhanh tay truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC đó là vuihoc.vn để đăng ký ngay cho mình khoá học thật nhanh chóng và được nghe giải đáp trực tiếp từ thầy cô giáo có trình độ và chuyên môn cao của VUIHOC nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-khoc-duong-khue-van-9-tap-1-canh-dieu-4195.html

 

Tovább

onthitnthpt

blogavatar

Phasellus lacinia porta ante, a mollis risus et. ac varius odio. Nunc at est massa. Integer nis gravida libero dui, eget cursus erat iaculis ut. Proin a nisi bibendum, bibendum purus id, ultrices nisi.

Utolsó kommentek