Nghị luận văn học là dạng bài thi rất quan trọng và luôn có mặt trong các kỳ thi học sinh giỏi và THPT Quốc gia môn Ngữ Văn. Bài viết này sẽ giúp các em ôn tập lại kiến thức về nghị luận văn học để các em nắm được những yêu cầu và thao tác trong khi làm bài. Từ đó, hướng dẫn chi tiết cách soạn bài Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học thông qua một số đề có sẵn.
1. Ôn tập kiến thức nghị luận văn học
- Khái niệm: Văn nghị luận là một thể loại văn được viết với mục đích xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Văn nghị luận cần phải chứa những luận điểm rő ràng, có những dẫn chứng và lí lẽ thuyết phục được người đọc, người nghe. Những tư tưởng và quan điểm trong bài văn nghị luận phải được xây dựng để hướng tới cách giải quyết những vấn đề được đặt ra và tồn tại trong cuộc sống, xã hội, như vậy mới có ý nghĩa.
- Những yêu cầu cần đáp ứng khi làm văn nghị luận: Phải viết đúng hướng, theo một trật tự nhất định, phải mạch lạc, trong sáng và sống động, có tính sáng tạo sẽ làm bài văn càng trở nên hấp dẫn.
- Những thao tác chính trong bài văn nghị luận bao gồm: giải thích, bình luận, chứng minh, bác bỏ, phân tích, so sánh,…
- Khi làm một bài văn nghị luận văn học thì cần phải lưu ý đến những yêu cầu sau đây:
-
Phải nắm chắc được cách sử dụng của các thao tác nghị luận về một đoạn trích, đoạn thơ, bài thơ và tác phẩm văn xuôi.
-
Cần củng cố lại những kiến thức cơ bản trong mỗi tác phẩm văn học như: tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, giá trị về nội dung, giá trị về nghệ thuật và giá trị về tư tưởng.
-
Đối với thơ thì ta cần lưu ý đến mặt hình thức thể hiện (như hình ảnh, cấu trúc, nhịp điệu, biện pháp tu từ,..).
-
Đối với các tác phẩm văn xuôi: cần phải chú ý đến phần cốt truyện, các tuyến nhân vật, tình huống, các dẫn chứng cần thật sự chính xác, làm nổi bật lên giá trị về hiện thực, giá trị về nhân đạo, tình tiết trong truyện
2. Hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học
2.1 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 1
Đề bài: Trong một bức thư luận bàn về chủ đề văn chương, Nguyễn Văn Siêu đã viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy đưa ra những nhận xét và phát biểu về quan niệm trên.
Bài làm cần có những nội dung dưới đây:
- Phân tích, giải nghĩa hai loại văn chương: "chuyên chú ở văn chương" và loại "chuyên chú ở con người".
+ Thế nào được gọi là văn chương "chuyên chú ở văn chương"?
Đó là một loại văn chương chỉ biết đến nó, tức là coi mọi hình thức về mặt nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác cũng chỉ chăm lo tới cái đẹp hình thức mà không mấy quan tâm đến nội dung tư tưởng và không bận tâm đến đời sống và vận mệnh của con người, không có ý thức, trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội.
+ Thế nào được gọi là văn chương "chuyên chú ở con người"?
Đó là một loại văn chương được quan tâm ưu tiên đến cuộc sống của con người và vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương nằm ở chỗ mà nó tạo lợi ích cho cuộc đời.
- Nêu quan điểm của bản thân về quan niệm của Nguyễn Văn siêu:
+ Vì sao loại văn chương đáng thờ lại là loại "Chuyên chú ở con người" chứ không phải là loại "Chuyên chú ở văn chương"?
Nguyễn Văn Siêu muốn thể hiện giá trị cao đẹp của văn chương. Nếu văn chương mà không quan tâm đến khía cạnh con người thì văn chương đã tự đánh mất giá trị của mình. Áng văn hay phải gọi là áng văn tâm huyết của con người cầm bút. Cái tâm sẽ thường nuôi dưỡng và làm phát huy cái tài.
- Liên hệ tới những nhà văn cũng có quan điểm giống như Nguyễn Văn Siêu.
Gợi ý:
Mỗi người nghệ sĩ đều theo phong cách nghệ thuật cá tính sáng tạo cùng tư tưởng thẩm mĩ riêng mà có những quan điểm riêng trong văn chương. Có người nghĩ rằng văn chương không phải được nhào nặn từ người thợ khéo tay thực hiện dựa trên một số kiểu mẫu được đưa cho, mà văn chương phải là sự khởi nguồn chưa một ai từng làm và sáng tạo ra những gì chưa có trước đấy. Có người lại nghĩ rằng văn chương phải là sự thoát li nhưng cũng có những người nghĩ rằng văn chương phải là những sự việc có thật ở đời, phải là những sự đau khổ bộc lộ ra từ kiếp lầm than. Với Nguyễn Văn Siêu, ông cho rằng “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Nguyễn Văn Siêu đã bày tỏ quan niệm của mình với văn chương. Theo ông thì văn chương được chia thành hai loại là văn chương không đáng thờ và văn chương đáng thờ. Văn chương không đáng thờ theo Nguyễn Văn Siêu là loại văn chỉ chuyên chú ở văn chương, còn văn chương đáng thờ với ông là loại chuyên chú ở con người.
Vậy chúng ta sẽ hiểu thế nào về văn chương mà chỉ chuyên chú ở văn chương? Văn chương chuyên chú ở văn chương chính là loại văn chương chỉ tập trung vào hình thức mà không có nhiều ý nghĩa đối với con người. Những tác phẩm như thế giống như một bài hát thoạt đầu có vẻ dễ nghe và bắt tai nhưng những ngôn từ trong nó thì lại chẳng mang ý nghĩa gì, chỉ là một vài ba câu từ ghép lại hết sức đơn giản và tẻ nhạt. Sức mạnh của văn chương cũng đã được nhiều người khác khẳng định, Thạch Lam đã từng ví văn chương như “một thứ khí giới thanh cao mà đắc lực” nó giúp cho tâm hồn của con người được thanh lọc và cũng vạch trần những điều giả dối trong xã hội. Thế nhưng nếu văn chương không có sự chuyên chú ở con người thì đó không phải là văn chương thực thụ nữa. Vì văn chương cũng có chức năng về giáo dục và nhận thức mà mặt thẩm mỹ cũng rất quan trọng đối với con người.
Thực tế cho thấy, khi một xã hội phát triển đồng nghĩa với những câu chuyện ngắn trên mạng cũng được đăng tràn lan. Ở đó ta có thể bắt gặp rất nhiều những câu chuyện về chủ đề tình yêu, tình bạn hoặc tình cảm gia đình. Nhưng cách viết của những câu chuyện ấy chỉ chú trọng vào hình thức văn bản mà không quan tâm đến nội dung và ý nghĩa của nó. Vả lại trước khi sáng tác một tác phẩm hay làm bất cứ một việc gì thì việc đầu tiên chúng ta cần phải xác định chính là đối tượng mà tác phẩm ấy muốn đề cập tới là ai. Nếu không xác định được điều này thì một tác phẩm văn chương được viết ra sẽ chẳng dành cho ai, chẳng biết sẽ phù hợp với độ tuổi nào thì đó không phải là loại văn chương để con người cần tôn thờ.Thể loại văn chương như vậy chỉ dựa vào thị hiếu của con người, nó cực kỳ sáo rỗng.
Ngược lại chúng ta có thể ghi nhớ rằng văn chương đáng được tôn thờ chính là văn chương chuyên chú ở con người. Đó là những tác phẩm vừa có giá trị nghệ thuật lại vừa có giá trị nhân văn thật sự sâu sắc. Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định đúng đắn khi đưa ra một yêu cầu cho những tác phẩm văn chương chân chính đó phải là tiếng nói và hơi thở của cuộc sống đời thường, đặt ra nhiệm vụ cần phản ánh hiện thực vào văn chương. Yêu cầu đó đòi hỏi ở nhà văn một sự tinh tế, nhạy bén và cảm nhận từ các giác quan rất rő ràng để có thể nhập tâm vào cuộc sống với mục đích khám phá tìm tòi. Một tác phẩm ưu tú không đem đến cho người đọc “sự thoát li hay sự quên" mà nó đem tới cho người đọc một hơi thở nhịp đập trong chính cuộc đời để mang lại người đọc những "bài học trông nhìn và thưởng thức" (Theo dòng). "Tác phẩm văn nghệ phải thể hiện sự sống thật hơn là sự sống bình thường cô đọng hơn khái quát hơn cao hơn cuộc sống mà văn là cuộc sống" (Trường Chinh). Người nghệ sĩ cũng cần phải nhận thức và phản ánh được cuộc sống có lý tưởng chứ không phải mình họa cho lý tưởng của cuộc sống. Lý tưởng ở ngay trong cuộc sống chứ không thể tách rời khỏi cuộc sống sẽ khiến người ta phải thoát ly hay quên lãng.
Văn chương chân chính cũng không phải là một công thức sao chép nô lệ hiện thực mà cần thể hiện được sự sáng tạo độc đáo một cách nghiêm túc của người nghệ sĩ. Quá trình sáng tạo ấy là quá trình mà nhà văn gom góp, chắt chiu từng mảnh đời, từng số phận để thu nhận vào mình muôn hình vạn trạng của cuộc sống ngoài kia và trải nghiệm chúng. Chỉ có sự công phu và sáng tạo như thế thì tác phẩm văn chương mới mang lại những linh hồn của cuộc sống và bắt buộc người đọc phải hướng tới cuộc đời đó để tìm kiếm và khám phá say mê. Văn chương chân chính chắc chắn không phải là thứ văn chương dễ dãi để người đọc không hiểu gì. Trong nền văn học Việt Nam chúng ta có rất nhiều các tác phẩm văn chương đáng được tôn thờ vì nó luôn luôn chú trọng vào con người. Ví dụ như tác phẩm “Vợ Nhặt” của Kim Lân được xếp vào văn chương đáng tôn thờ bởi tác phẩm đã ca ngợi được vẻ đẹp về tình thương mến thương, lá lành đùm lá rách của dân tộc ta, nó sẽ luôn tỏa sáng kể cả với hoàn cảnh khó khăn nhất là nạn đói. Điều đó còn thể hiện lên vẻ đẹp của đất nước, sự tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc tốt đẹp, về tinh thần yêu nước và mối căm hận giặc, về tự tôn dân tộc và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong tác phẩm “Đất nước” của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Từ thời Nguyễn Trãi hay Nguyễn Du với những tác phẩm như Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều cho đến giai đoạn Hồ Chí Minh, Nam Cao, Tố Hữu… đều toả sáng bằng những áng văn chương đáng được tôn thờ đến ngàn đời.
Như vậy, có thể thấy rằng Nguyễn Văn Siêu thật sự tinh tế và mang đến những quan điểm đúng đắn về các thể loại văn chương. Để rồi, người đọc cũng như người viết biết cách sáng tạo thêm, lựa chọn ra những tác phẩm văn chương thực sự có ích, mang ý nghĩa nhất định, những tác phẩm văn chương đáng được tất cả các thế hệ tôn thờ.
2.2 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 2
Đề bài: Nhà văn người Pháp nổi tiếng Buy- phông có viết :”phong cách chính là người”. Anh chị hiểu như thế nào về ý kiến đó?
Cần lưu ý những ý chính dưới đây:
- Phong cách chính là nét độc đáo nhất và cũng là đóng góp riêng của các nhà văn cho đời sống văn học.
- Phong cách bao gồm cả 2 khía cạnh nội dung và nghệ thuật:
+ Độc đáo trong nội dung thể hiện rő ở quan niệm về cuộc sống cũng như con người từ việc chọn ra đề tài, xác định được chủ đề, cách giải thích những vấn đề tồn tại trọng cuộc sống và con người ... .
+ Độc đáo trong nghệ thuật thể hiện rő ở phương thức biểu hiện, ở việc chọn lựa những thủ pháp nghệ thuật, tổ chức có kết cấu, cách sử dụng ngôn ngữ ... .
- Điều thích thú khi đọc một tác phẩm văn học là phát hiện ra những nét độc đáo trong phong cách của từng nhà văn.
Gợi ý:
Mỗi con người sinh ra không phải ai cũng giống hệt nhau, mỗi người đều sở hữu những nét khác biệt tạo nên cái riêng của bản thân mình và cái riêng đó thường được biết đến là phong cách. Như nhà văn người Pháp nổi tiếng Buy-phông có viết: "phong cách chính là người"
Đúng như vậy! Phong cách chính là người, phong cách của mỗi người phản ánh đúng con người của họ. Vậy chúng ta có thể hiểu phong cách như thế nào? Theo nghĩa hẹp, phong cách được định nghĩa là cách thức riêng biệt của một tác giả, một người nghệ sĩ thể hiện trong sự sáng tạo của một tác phẩm, của một công trình văn hóa và nghệ thuật. Đó là những biểu hiện có tính chất hệ thống về tư tưởng trong nghệ thuật, các đặc trưng mang đến vẻ đẹp thẩm mỹ, ổn định về cả nội dung lẫn hình thức thể hiện để tạo nên giá trị độc đáo cho tác giả. Theo nghĩa rộng, phong cách chính là phong thái, là phong độ và phẩm chất đã trở nên ổn định của một người hoặc một tập thể được thể hiện rő nét trong tất cả những hoạt động sống của chủ thể, tạo được những giá trị riêng, những nét đặc trưng của họ. Phong cách được định nghĩa như một nguyên tắc giúp điều chỉnh hành vi của con người và trở thành một thói quen, nề nếp ổn định kể cả khi suy nghĩ, diễn đạt hay hoạt động thực tế. Đối với mỗi người thì phong cách lại có nét gần với đặc điểm về truyền thống, thói quen, hoặc hoàn cảnh sống quy định, đồng thời cũng mang dấu ấn cá nhân vô cùng rő ràng. Mỗi người, từ thời thơ ấu lớn lên đã mang trong mình một phong cách riêng. Phong cách nào thì cũng mang vẻ tự tin của chính mình.
Trong cuộc sống hiện nay, chúng ta đã được nghe về rất nhiều phong cách, nào là phong cách sống, phong cách thời trang, phong cách nghệ thuật,... Nói về khía cạnh thời trang, chúng ta cũng thường được nghe về việc nhận xét phong cách thời trang của một người chẳng hạn như phong cách cá tính, phong cách bánh bèo,.. Theo những lời nhận xét đó thì ta có thể thấy rằng, mỗi người hoặc một tập thể đều lựa chọn cho mình một phong cách thời trang riêng mà họ cảm thấy yêu thích và tự tin nhất khi mặc. Có người lựa chọn phong cách gợi cảm, có người lại thích theo đuổi phong cách dễ thương, có người lại chỉ thích phong cách thật mộc mạc, trong sáng… Không chỉ trong thời trang thường ngày mà ta còn thường bắt gặp phong cách của những người nghệ sĩ, như ca sĩ. Phong cách của từng ca sĩ được thể hiện trong những bài hát mà họ trình bày. Người ca sĩ hát nhạc trữ tình sẽ khác biệt với người hát nhạc rap hay nhạc cách mạng… Mỗi người ca sĩ ngoài gu thời trang, người ta còn nhớ tới họ theo đuổi một dòng nhạc như thế nào nữa. Mà chính những điều này tạo nên phong cách riêng cho một người ca sĩ.
Trong văn học cũng như vậy, phong cách của nhà văn được bộc lộ trên cả hai phương diện là nội dung và nghệ thuật. Trong nội dung, phong cách của nhà văn in đậm bởi những quan niệm về cuộc sống con người, việc chọn ra đề tài, xây dựng nên chủ đề, cách giải thích những vấn đề tồn tại trong cuộc sống con người… Có thể thấy được điều này ở rất nhiều nhà văn nổi tiếng như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Hồ Chí Minh… Nguyễn Tuân thường nhìn nhận mọi sự vật, sự việc dưới một góc độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn đã tìm thấy được sự tài hoa của những nhà Nho hết thời từ những thú vui tao nhã của họ: thả thơ, ngâm vịnh, uống trà,… Sau Cách mạng, nhà văn lại mê đắm vào sự tài hoa của những con người Việt Nam trong công cuộc lao động và sản xuất… Nam Cao lại mang phong cách khác. Trước Cách mạng, ông luôn viết đề tài về những người nông dân Việt Nam nô lệ bị bóc lột, tha hóa về cả tinh thần, nhân phẩm hay những nhà trí thức Việt Nam khổ sở trong nỗi đau khi bị “áo cơm ghì sát đất”… Về nghệ thuật, phong cách của nhà văn cũng được bộc lộ ở đa dạng các phương diện: phương thức biểu hiện, cách lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết cấu và tổ chức ngôn ngữ… Điều này cũng rất dễ phân biệt đặc biệt với những tác giả lớn.
Nhà thơ Tố Hữu thường chọn sáng tác bằng thể thơ lục bát, giọng điệu mang tâm tình ngọt ngào để thể hiện được tình cảm tha thiết và chân thành của nhân vật trữ tình. Nhà văn Nam Cao lại dễ “bị” nhận ra vì lối kể chuyện mang phong cách đảo trình tự tuyến tính hiện đại hay cách liên kết đoạn văn vô cùng tài tình… Mỗi nhà văn lại thể hiện những ý tưởng độc đáo khác nhau trong việc thể hiện các tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi đã đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ… không gì thú vị hơn việc phát hiện ra được những nét đặc sắc trong phong cách của từng tác giả. Những nhà văn, nhà thơ tài ba thực sự mới có thể định hình được phong cách riêng cho mình. Và giữa phong cách của từng tác giả lại có một mối quan hệ chặt chẽ tới bản cá tính của mỗi nhà văn.
Trong văn học, phong cách được bộc lộ sinh động như một thực thể thể hiện được những quan niệm cá nhân trong văn học. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao luôn thể hiện vẻ khách quan, hờ hững với các nhân vật. Ông gọi họ bằng những từ như “y”, “thị”, miêu tả họ với những hình dáng xấu xí, thậm chí là có phần ghê rợn (đặc biệt là hình ảnh những người nông dân). Nhưng phía sau những trang văn lạnh lẽo, miệt thị ấy lại là tấm lòng đồng cảm thấu suốt là tình yêu thương đến nhói buốt của một tâm hồn đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao cũng mang dáng vẻ giống như giọng điệu văn chương của ông thể hiện trong truyện ngắn. Nhắc tới Nam Cao, những người bạn văn nghĩ đến một dáng vẻ vô cùng trầm lặng, ít nói, nhưng thực ra, ẩn sau dáng vẻ phẳng lặng và im ắng ấy là một tinh thần rất sôi nổi và quyết liệt. Chỉ với tính cách mạnh mẽ mới có thể phát biểu rằng: “Sống đã rồi hãy viết”! Phong cách của nhà văn thể hiện rő nét trên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của từng tác giả lại hằn sâu vào lòng người đọc tạo thành mối đồng cảm sâu sắc giữa các nhà văn, nhà thơ với những độc giả chân thành.
Tất cả những phong cách trong các lĩnh vực ấy, khía cạnh về đời sống con người đều thê hiện một điều rằng, phong cách chính là con người. Phong cách đã phản ánh một con người, nó tạo nên sự riêng biệt của con người với nhau, tạo nên sự đa dạng trong cuộc sống. Điều đó một lần nữa khẳng định lại ý kiến của nhà văn người Pháp Buy -phông là chính xác và có ý nghĩa.
2.3 Soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Đề 3
Đề bài: Anh chị hãy thể hiện quan điểm của bản thân về ý kiến của nhà văn người Pháp La Bơ-ruy –e:” Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một người nghệ sĩ viết ra"
Cần làm nổi bật một số ý chính sau:
- Tiêu chí dựa vào để đánh giá một tác phẩm hay, theo nhà văn La Bơ-ruy-e chính là giá trị giáo dục của tác phẩm ấy.
- Giá trị giáo dục của một tác phẩm văn học: "Nâng cao tinh thần", gợi: "Những tình cảm cao quý và can đảm" của con người.
Gợi ý:
Có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau khi bàn về cách nhận xét giá trị của văn chương. Có người chú trọng về mặt nghệ thuật, có người chú trọng về mặt nội dung. Nhà văn người Pháp La Bơ-ruy-e cũng đã mang đến một cách đánh giá về giá trị của tác phẩm văn học của mình. Ông viết " Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và cân đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay do một nghệ sĩ viết ra"
Đúng như vậy! Nhà văn La Bơ-ruy-e đã bày tỏ quan điểm về cách đánh giá một tác phẩm văn chương và như thế nào là một nghệ sĩ chân chính. Theo ông, tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tinh thần của con người theo hướng tích cực chính là một cuốn sách hay, chính xác là văn chương và người viết ra nó xứng đáng được gọi bằng nghệ sĩ. Câu nói của nhà văn Pháp La bơ-ruy-e mang ý khẳng định giá trị của một tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học được viết ra sẽ có nhiều người đọc thưởng thức những không phải ai cũng thấy được cái hay trong tác phẩm này vì mỗi người cũng có những sở thích khác nhau. Bỏ qua nguyên tắc đánh giá một tác phẩm có được coi là giá trị hay không, chúng ta chỉ cần thấy rằng tác phẩm đó khiến cho tinh thần của ta được nâng cao và khơi gợi cho ta những tình cảm cao quý thì nó chính là một tác phẩm có giá trị do một người nghệ sĩ tài ba sáng tác. Bởi khi ấy, nó mang giá trị về mặt tinh thần vô cùng lớn đối với ta rồi.
Văn học đến với mỗi người dựa vào tình cảm và cảm xúc. Nó mang đến cho con người những rung động sâu xa trước vẻ đẹp của quê hương, của đất nước, trước cuộc sống vô cùng phong phú, đa dạng muôn hình vạn trạng và nhất là trước độ sâu của thế giới tâm hồn. Mục đích trước tiên và quan trọng nhất của văn học chính là giúp con người đối chiếu, liên tưởng và suy nghĩ về cuộc đời và về chính bản thân mình, nâng cao niềm tin với bản thân để từ đó rút ra được nhận thức đúng đắn hơn, có khát khao hướng tới chân lí, dám đấu tranh để chống lại cái xấu, cái ác; biết tìm tòi và hướng đến những cái Đẹp, cái Thiện trong cuộc sống. Đó chính là văn học chân chính, nó mới có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa và xứng đáng là tri kỉ của con người. Tư tưởng này của ông cũng gần giống với tư tưởng của hai nhà văn, nhà hiện thực văn học lớn ở Việt Nam là tác giả Thạch Lam và tác giả Nam Cao. Thạch Lam cho rằng văn chương không phải cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; mà trái lại, văn chương là một thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể sở hữu, để tố cáo và làm thay đổi một cái thế giới giả dối và độc ác, vừa làm cho lòng người thêm phần trong sạch và phong phú hơn. Còn với Nam Cao, ông đã thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” để bộc lộ quan điểm của bản thân về tác phẩm văn chương cũng như về nhà văn chân chính. Là một nhà văn, Hộ cũng từng ấp ủ hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương của bản thân. Anh mong muốn sẽ sáng tác ra những tác phẩm thật sự có giá trị, vượt lên trên tất cả bờ cői và giới hạn. Quan điểm về văn chương của Hộ cũng vô cùng tiến bộ: Một tác phẩm văn chương đích thực cần phải chứa được một cái gì đó thực sự lớn lao, mạnh mẽ lại vừa đau đớn nhưng lại phấn khởi. Nó ca tụng lòng yêu thương, tình nhân ái, sự công bằng… Nó làm cho con người lại gần nhau hơn. Nhà văn phải là những người nghệ sĩ vừa mang trong mình cái tâm lại vừa có cái tài, trong sáng tác phải xây dựng cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn riêng biệt không thể lẫn với bất cứ người nào khác; vì: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao).
Chúng ta có thể nhận thấy rằng có những tác phẩm được coi là tác phẩm kinh điển, hay những tác phẩm mang đến giá trị về nội dung và nghệ thuật to lớn- những tác phẩm ấy không viết về những chủ đề cao siêu, mà chỉ đơn giản viết về những cái giản đơn, thân thuộc và gần gũi nhất với con người. Bởi những thứ đó, nó gắn bó với cuộc sống của từng người, khiến người đọc cảm nhận được mình xuất hiện trong chính tác phẩm ấy, thấy tiếng lòng được nói ra. Ví dụ như tác phẩm “Hai đứa trẻ” của tác giả Thạch Lam ngày nào cũng ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm. Hay tác phẩm “Vợ nhặt” của tác giả Kim Lân kể về anh cu Tràng nhặt được vợ trong một ngày đói, rồi tác phẩm “Chí Phèo”, “Đời thừa” của tác giả Nam Cao. Bên cạnh đó, cũng có vô số tác phẩm văn học thế giới kinh điển đã chứng minh điều này ví dụ như bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của Vích-to Huy-gô là một bài ca tuyệt vời thể hiện tình thương yêu của con người, về đức vị tha và sự hi sinh đến quên bản thân. Nhân vật Giăng Van-giăng chính là “nhân vật tư tưởng” tiêu biểu thể hiện sự nhân đạo của nhà văn. Người thợ làm vườn nghèo khổ ấy vì thương đàn cháu trong hoàn cảnh mồ côi nheo nhóc, đói khát đã liều mình đập vỡ cửa kính của tiệm bán bánh mì để ăn cắp một ổ. Bị kết án khổ sai, Giăng Van-giăng cũng mấy lần tìm cách để vượt ngục nhưng không thành công nên thời gian ngồi tù lại càng kéo dài ra mãi. Sau khi được tự do, vì hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo, Giăng Van-giăng lại tiếp tục phạm tội cướp đồng xu của một đứa bé và ăn cắp bộ đồ ăn làm bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự độ lượng và lòng bác ái của vị giám mục nhân từ đó đã cứu Giăng Van-giăng thoát khỏi vòng lao lý và nó tác động to lớn đến tư tưởng và tình cảm của con người tội nghiệp này. Nó đóng vai trò quyết định trong sự thay đổi cuộc sống và trong tính cách của nhân vật Giăng Van-giăng...
Như vậy, ý kiến của nhà văn người Pháp La Bơ -ruy -e hoàn toàn chính xác, góp phần trong việc khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của chức năng giáo dục trong văn chương và cũng nêu lên được cách đánh giá đúng đắn về tài năng của những người nghệ sĩ. Văn chương đem đến cho con người ta những giá trị tinh thần vô cùng cao quý, giúp con người hướng tới những nét đẹp Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống. Những tác phẩm văn học mang giá trị về nội dung và tư tưởng ; giá trị nghệ thuật cao sẽ vượt qua được những thử thách khắc nghiệt từ dư luận, của thời gian, không gian để ghi tên mình vào kiệt tác muôn đời của nhân loại. Đúng như nhà văn La Bơ-ruy-e khẳng định: …đó là một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.
Nắm chắc những kiến thức về khái niệm, yêu cầu và thao tác trong văn nghị luận sẽ giúp các em có thể đạt điểm tối đa ở câu có dạng văn này. Bởi vậy, việc ôn tập lại kiến thức và tham khảo các cách viết bài nghị luận văn học là vô cùng cần thiết đối với môn Ngữ Văn. Chính vì thế, bài viết phía trên sẽ hướng dẫn cho các em cách soạn bài viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học. Để nắm được những kiến thức bổ ích và các bài tham khảo Soạn văn 12 học kỳ 2 cũng như các môn học khác, các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học cùng các thầy cô VUIHOC ngay nhé!
Nguồn:
https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-viet-bai-lam-van-so-5-nghi-luan-van-hoc-1879.html