Trong giao tiếp hằng ngày luôn luôn xuất hiện những nhân vật giao tiếp. Đó là những đối tượng vô cùng quan trọng đối với những đoạn hội thoại hoặc đối thoại. Đây là phần kiến thức quan trọng cần phải nắm được vậy nên VUIHOC đã viết bài này giúp các em soạn bài nhân vật giao tiếp và từ đó hướng dẫn các câu hỏi luyện tập.
1. Soạn bài nhân vật giao tiếp
1.1 Câu 1: SGK Ngữ văn 12/2 trang 18
Đề bài: Đọc đoạn trích dưới đây và phân tích dựa vào các câu hỏi được đưa ra phía dưới:
Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.
(Kim Lân, Vợ nhặt)
a) Trong những hoạt động giao tiếp phía trên, các nhân vật có đặc điểm gì về tuổi tác, giới tính và tầng lớp xã hội?
Trong những hoạt động giao tiếp phía trên, các nhân vật có những đặc điểm sau đây:
Các nhân vật giao tiếp trong đoạn trích trên là Tràng, mấy cô gái và nhân vật “thị”
-
Về lứa tuổi: Họ đều là những người thanh niên trẻ tuổi
-
Về giới tính: Tràng giới tính nam, còn lại là giới tính nữ
-
Về tầng lớp xã hội: Họ đều là những người dân lao động sống một cuộc sống nghèo đói.
b) Các nhân vật giao tiếp đã thay đổi vai người nói, người nghe và luân phiên lượt lời như thế nào? Lượt lời đầu tiên của nhân vật “thị” muốn hướng đến ai?
Các nhân vật giao tiếp đã thay đổi vai người nói, người nghe và luân phiên lượt lời như dưới đây:
Lúc đầu: Hắn (chỉ nhân vật Tràng) là người nói còn mấy cô gái là người nghe.
Tiếp theo: Mấy cô gái là người nói còn nhân vật Tràng và "thị" là người nghe.
Tiếp theo: "Thị" là người nói, còn nhân vật Tràng (chủ yếu) và mấy cô gái là người nghe.
Tiếp theo: Tràng là người nói còn "Thị" là người nghe.
Cuối cùng: "Thị" là người nói còn Tràng là người nghe.
c) Các nhân vật giao tiếp phía trên có bình đẳng về vị thế ở trong xã hội hay không?
Các nhân vật giao tiếp phía trên vô cùng bình đẳng về vị thế ở trong xã hội (họ đều là những người dân lao động cùng có cuộc sống nghèo khổ)
d) Họ có quan hệ như thế nào (xa lạ hay thân thiết) khi tham gia cuộc giao tiếp không?
Khi tham gia vào cuộc giao tiếp, các nhân vật giao tiếp phía trên có quan hệ vô cùng xa lạ.
e) Những đặc điểm về vị thế xã hội, lứa tuổi, giới tính, quan hệ thân sơ, nghề nghiệp chi phối như thế nào tới lời nói của các nhân vật?
Những đặc điểm về vị thế xã hội, lứa tuổi, giới tính, quan hệ thân-sơ, nghề nghiệp,... đã góp phần chi phối lời nói của nhân vật trong quá trình giao tiếp. Ban đầu còn chưa quen nên giao tiếp chỉ mang tính chất là trêu đùa và thăm dò. Nhưng dần dần, khi đã quen và mạnh dạn hơn do cùng lứa tuổi, bình đẳng về vị thế ở trong xã hội, lại cùng cảnh ngộ nghèo khổ nên những nhân vật giao tiếp tỏ ra hết cực thoải mái.
1.2 Câu 2: SGK Ngữ văn 12/2 trang 20
Đề bài: Đọc đoạn trích dưới đây và phân tích theo những câu hỏi được nêu phía dưới:
Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
- Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?
Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:
- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?
Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng. Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:
- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mầy đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
- Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.
Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:
- Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người ta đun nước, mau lên!
(Nam Cao, Chí Phèo)
a) Trong đoạn trích phía trên có tất cả bao nhiêu nhân vật giao tiếp và họ là ai? Trường hợp nào Bá Kiến chỉ nói với một người nghe duy nhất, trường hợp nào Bá Kiến lại nói với nhiều người nghe?
Các nhân vật giao tiếp xuất hiện trong đoạn trích: nhân vật Bá Kiến, mấy bà vợ của Bá Kiến, dân làng và nhân vật Chí Phèo.
Bá Kiến nói với một người nghe duy nhất trong trường hợp nói với Chí Phèo. Còn lại, khi nói với mấy bà vợ, hay dân làng, với Lí Cường, Bá Kiến nói cho nhiều người nghe (trong đó bao gồm cả Chí Phèo).
b) Vị thế trong xã hội của Bá Kiến khi so sánh với mỗi người nghe như thế nào? Điều này chi phối tới cách nói và lời nói của nhân vật Bá Kiến ra sao?
Vị thế xã hội của Bá Kiến đối với từng người nghe:
+ Với mấy bà vợ thì Bá Kiến có vai trò là chồng (chủ gia đình) nên được "quát".
+ Với dân làng thì Bá Kiến là cụ lớn, thuộc tầng lớp cao nên lời nói có phần tôn trọng (các ông, các bà) nhưng thực chất thì đuổi (về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?).
+ Với Chí Phèo thì Bá Kiến vừa có vai trò là ông chủ cũ, vừa là kẻ đã chính tay đẩy Chí Phèo vào tù, kẻ mà lúc bấy giờ Chí Phèo đến để "ăn vạ". Bá Kiến vừa phải thăm dò, vừa phải dỗ dành, lại vừa có vẻ đề cao và coi trọng.
+ Với Lí Cường thì Bá Kiến là người cha, cụ quát con mình nhưng thực chất là để xoa dịu cho nhân vật Chí Phèo.
c) Đối với Chí Phèo thì Bá Kiến đã thực hiện chiến lược giao tiếp với mình như thế nào? Hãy phân tích chi tiết chiến lược đó theo những bước dưới đây:
- Bá Kiến đuổi tất cả mọi người về, chỉ đối thoại với riêng Chí Phèo
+ Nói với mấy bà vợ: Các bà đi vào nhà, đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì!
+ Rồi quay sang đám người làng với giọng dịu hơn một chút “cả các ông, các bà nữa, về thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?”
=> Mục đích của câu nói này là để đuổi khéo mọi người, để cô lập Chí Phèo cho dễ dàng nói chuyện và đối phó được với Chí Phèo dễ dàng hơn.
- Bá Kiến giảm cơn tức giận của nhân vật Chí Phèo bằng cả hành động lẫn lời nói.
+ Bá Kiến đã hạ nhiệt cơn giận của Chí Phèo bằng những lời lẽ ngọt ngào cùng cách xưng hô tâng bốc: Anh Chí ơi!
+ Rồi xưng hô thân mật: cái anh này, tiếp đến là cách nói như xưng hô với người trong nhà bằng ngôi thứ nhất số nhiều: ta (để phân biệt rő ràng với người ngoài). Bên cạnh cách xưng hô như vậy là những lời nói vô cùng nhẹ nhàng, đầy khích lệ và động viên cùng với hành động thân thiết như người quen thân lâu ngày rồi mới gặp.
=> Bá Kiến đã nâng vị thế của Chí Phèo lên ngang hàng với mình và nhận Chí Phèo là người họ hàng. Cách nâng vị thế trong giao tiếp làm cho Chí Phèo cảm thấy hãnh diện vì được ngang hàng với một gia đình danh giá trong làng, chẳng mấy chốc mà hắn quên đi ý định ban đầu.
- Đòn cuối cùng chính là Bá Kiến đã mắng Lí Cường với một giọng điệu đắc thắng để tôn Chí Phèo lên và Bá Kiến đã đạt được mục đích dập tắt đi ngọn lửa căm thù bên trong Chí Phèo, bóp chết ý định trả thù của Chí Phèo khi còn trong trứng nước.
d) Với chiến lược giao tiếp như phái trên thì Bá Kiến đạt đươc mục đích và hiệu quả giao tiếp hay không? Những người nghe trong cuộc hội thoại ấy với Bá Kiến có phản ứng ra sao khi nghe được những lời nói của Bá Kiến?
Bá Kiến đã đạt được mục đích cũng như hiệu quả giao tiếp:
Những người nghe trong đoạn hội thoại đều nghe răm rắp theo Bá Kiến.
Chí Phèo khi đến thì hung hãn nhưng cuối cùng cũng bị làm cho khuất phục, thấy lòng mình nguôi nguôi
2. Soạn bài nhân vật giao tiếp: Hướng dẫn luyện tập
2.1 Bài 1: SGK Ngữ văn 12/2 trang 21
Đề bài: Phân tích sự chi phối của vị thế trong xã hội ở những nhân vật đối với lời nói của họ trong đoạn trích dưới đây:
Anh Mịch nhăn nhó, nói:
-Lạy ông, ông làm phúc cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông nghị, kẻo ông ấy đánh chết.
Ông lí cau mặt lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:
-Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.
-Cắn cỏ, con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông nghị ghét co, cả nhà con khổ.
-Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy không được à?
- Đối với ông nghị con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không vợ con con chết đói.
- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Đứa nào không tuân để quan gắt, tao trình thì rũ tù.
-Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.
-Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao. Hôm ấy mà mày không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.
(Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)
Hai nhân vật đang giao tiếp trong đoạn trích phía trên là anh Mịch - một người nông dân nghèo khổ cùng với lí trưởng - người có chức chức có quyền ở trong làng. Vì vị thế xã hội có sự chênh lệch và vị thế xã hội đó đã chi phối các nhân vật thể hiện ở mọi cử chỉ và hành động.
Vị thế xã hội:
-
Anh Mịch - kẻ bên dưới người bị bắt phải đi xem đá bóng
-
Lí trưởng - kẻ bề trên là người thừa lệnh quan bắt người phải đi xem đá bóng
Chính vị thế như thế cũng chi phối hai nhân vật trong từng cử chỉ, lời nói và cả hành động: Anh Mịch thì giọng nói thể hiện sự nài nỉ, van xin và nhún nhường (con lạy ông, van ông, cắn cỏ con lạy ông,..); trong khi đó ông lí thì lại vô cùng hách dịch, quát mắng (xưng hô mày tao, sử dụng câu lệnh,..)
2.2 Bài 2: SGK Ngữ văn 12/2 trang 21
Phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế trong xã hội, giới tính văn hóa, nghề nghiệp, ... của những nhân vật giao tiếp với đặc điểm thể hiện trong lời nói của họ ở đoạn trích dưới đây:
Bỗng dưng tất cả dừng lại, dưới cây đũa thần, hay đúng hơn dưới ngọn roi gân bò mà viên đội sếp Tây vừa vung lên, vừa quát tháo:" cái giống tởm nhà mày! có cút đi không cái giống tởm!". Thế là cái đám đông lúc nhúc đứng sắp hàng, vừa yên lại vừa lặng, hai bên lề đường.Gì thế nhỉ? xe ô tô quan Toàn quyền sắp đi qua đấy...Xe kia rồi! Lại cả ông Toàn quyền đây rồi!
- Quan có cái mũ hai sừng trên chóp sọ! - Một chú bé con thì thầm.
-Ồ! Cái áo dài đẹp chửa! -- Một chị con gái lớn thốt ra.
- Ngài sắp diễn thuyết đấy!- Một anh sinh viên kêu lên
-Đôi bắp chân ngài bọc ủng- Một bác cu-li xe thở dài.
-Rậm râu, sâu mắt - Một nhà nho lẩm bẩm
Thế là ô tô ông Va-ren chạy qua giữa hai hàng rào con người, lưng khom lại khi ngài đến gần.
(Nguyễn Aí Quốc, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu)
+ Viên đội sếp Tây: vị thế trong xã hội là người có quyền có thế, nghề nghiệp là cảnh sát, giới tính nam, văn hóa kém cỏi vì những lời thoại vô cùng hống hách lại có thái độ phân biệt chủng tộc.
+ Nhân vật đám đông: vị thế trong xã hội thấp kém, văn hóa cũng thấp nên những lời thoại đều mang tính hiếu kì.
+ Chú bé con vẫn còn ngây thơ nên chỉ chú ý tới chi tiết lạ mắt của viên Toàn quyền và cũng chỉ xem xét đối tượng ở bên ngoài.
+ Chị con gái, ở tuổi hồn nhiên, yêu thích làm đẹp nên chỉ quan tâm tới những bộ trang phục.
+ Anh sinh viên là nhân vật có trình độ văn hóa, quan tâm tới những hoạt động trong xã hội và chính trị nên suy nghĩ về việc làm của viên Toàn quyền.
+ Bác cu-li xe vô cùng vất vả với nghề nghiệp của mình, văn hóa ở mức thấp nên nhìn những đối tượng có liên quan tới chuyện làm ra miếng cơm manh áo của mình.
+ Nhà nho học vấn uyên thâm nên lại có cái nhìn vô cùng sâu sắc: nhìn bên ngoài có thể đánh giá được bản chất bên trong của đối tượng đó.
Như vậy: Lời thoại của những nhân vật giao tiếp thường phản ánh đúng trình độ học vấn, văn hóa, cũng như lứa tuổi, giới tính và nghề nghiệp của nhân vật ấy.
2.3 Bài 3: SGK Ngữ văn 12/2 trang 22
Đọc đoạn trích phía dưới và trả lời những câu hỏi được nêu ở dưới đây:
Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ?
- Cảm ơn cụ nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý vẫn còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Cứ nằm đấy, chốc nữa họ lại vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm rề rề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn.
- Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì.
- Thế phải giục anh ấy ăn mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy!
Rồi bà lão lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
a) Nhân vật bà lão và nhân vật chị Dậu có vị thế xã hội và quan hệ với nhau như thế nào? Điều đó đã chi phối tới lời nói của cả hai nhân vật này ra sao?
Quan hệ giữa nhân vật bà lão hàng xóm và nhân vật chị Dậu là quan hệ hàng xóm láng giềng thân thiết với nhau.
Điều đó đã chi phối tới lời nói và cách nói của 2 người một cách thân mật:
Bà lão: bác trai, anh ấy, ...
Chị Dậu: cảm ơn, nhà cháu, cụ, ...
b) Phân tích quá trình tương tác về hành động nói giữa lượt lời của hai nhân vật tham gia giao tiếp trong đoạn trích trên.
Sự tương tác về hành động và ngôn ngữ giữa các lượt lời của 2 nhân vật này:
Hỏi thăm - cảm ơn
Đề nghị - lĩnh hội
Đề nghị - (đồng ý)
c) Lời nói và cách nói của hai nhân vật đó cho thấy được tính cách cũng như cách ứng xử của hai người có những nét văn hóa đáng tôn trọng ra sao?
Đoạn hội thoại cho thấy rằng cách ứng xử của cả hai nhân vật tuy thân mật nhưng không suồng sã do tính chất quan trọng của nội dung đề tài và nhân vật Chị Dậu khi nói chuyện với người bề trên (người hơn tuổi) thì phải lễ phép. Văn hóa ứng xử ấy vô cùng đẹp, đáng tôn trọng. Họ là những người nông dân rất giàu tình cảm và vô cùng trách nhiệm.
Khi nhắc đến những đoạn đối thoại, hội thoại trong giao tiếp không thể không nhắc tới nhân vật giao tiếp. Đây là kiến thức quan trong mà mỗi em học sinh đều phải nắm được để có thể áp dụng được không chỉ trong bài thi mà còn áp dụng được trong đời sống. Vì vậy, VUIHOC đã giúp các em tìm hiểu dễ dàng kiến thức này thông qua việc hướng dẫn soạn bài nhân vật giao tiếp và các bạn tham khảo Soạn Văn 12 khác. Các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học cùng các thầy cô VUIHOC để có thêm kiến thức về môn văn nói riêng và các môn học khác nói chung nhé!
Nguồn:
https://vuihoc.vn/tin/thpt-soan-bai-nhan-vat-giao-tiep-1880.html