Không chỉ là một bậc thầy trong việc tả người, Nguyễn Du còn có biệt tài trong việc tả cảnh. Khung cảnh ông miêu tả đã đạt tới sự mẫu mực, cổ điển, nói lên được tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Tình và cảnh trở thành hai yếu tố bổ sung làm ra chất riêng cho sáng tác của Nguyễn Du. Và tình cảnh đó đã được ông kết hợp vô cùng hài hòa nhằm phản ánh lên tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Mỗi một bức tranh của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích gắn liền với một tâm trạng của Thúy Kiều. Bức tranh đầu tiên là khung cảnh thiên nhiên hoang vắng và mênh mông, rợn ngợp:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

    …

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Sau khi bị lừa và giam nhốt vào lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều tự hiểu được hoàn cảnh của bản thân. Là một cô gái trẻ, ấy thế mà nàng lại bị “khóa xuân” ở trong cung cấm, không được giao tiếp với bên ngoài, nàng như bị giam lỏng. Khung cảnh thiên nhiên bao la và hoang vắng: trăng sáng, núi xa, cồn vàng, những bụi cỏ trải dài hết cả tầm mắt. Kiều vừa bị lừa, vừa bị đánh đập và la mắng, định tự tử nhưng không thành, nay lại bị giam ở lầu Ngưng Bích.

Trong khung cảnh đó, tâm trạng của con người làm sao cho hết buồn, hết cô đơn và tủi cực, lòng nàng ngổn ngang trăm bộn bề, tìm ra xa, rồi đi lại gần để mong có được hơi ấm trong cuộc sống, nhưng cuối cùng lại chỉ có thể làm bạn với canh khuya. Nàng đau đớn thắt lòng, chẳng thể nào làm tìm được nguồn vui ở hiện tại nên nàng đành lòng nhớ về quá khứ và nhớ về người thân. Nàng nhớ đến Kim Trọng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

    …

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Nhưng nhớ về Kim Trọng càng khiến nàng đau đớn hơn. Những kỉ niệm trong sáng và đẹp đẽ của mối tình đầu bỗng ùa về, làm thắt lại trái tim vốn nhỏ bé của nàng. Nàng tự trách mình đi không có một lời báo trước để chàng Kim vẫn ngày đêm ngóng trông. Bao giờ nàng mới có thể quên đi được mối tình trong sáng và đẹp đẽ đó. Sau khi nhớ đến Kim Trọng, Thúy Kiều nhớ đến cha mẹ già, tuổi cao sức yếu mà không có người chăm lo: “Xót người tựa cửa hôm mai/ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ/ Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” kết hợp với điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đã cực tả về nỗi nhớ thương cũng như lòng hiếu thảo của Kiều. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói về sức mạnh của bao mùa mưa nắng, vừa nói về sự tàn phá của thiên nhiên đối với cảnh vật và con người. Nguyễn Du đã thành công khi sử dụng được ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm thía vào cảnh vật, thời gian lẫn lòng người. Nàng dường như quên đi cảnh ngộ của chính mình để lo nghĩ cho những người thân yêu.

Bức tranh thiên nhiên thứ hai cũng là tám câu thơ cuối, khi nàng trở về với hiện thực phũ phàng trước mắt mình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

    …

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Khung cảnh về chiều, với cánh buồm bé nhỏ ẩn hiện ở giữa khung cảnh mênh mông sóng nước. Con thuyền càng trở nên lẻ loi và đơn độc hơn. Nó cũng giống như cuộc đời của Kiều, đơn độc ở trên bước đường đời đầy truân chuyên, chẳng biết khi nào mới được đoàn tụ với gia đình.

Rồi đôi mắt nàng hướng đến những ngọn nước mới sa, những nhành hoa mỏng manh bị trôi dạt, rồi tự hỏi không biết chúng sẽ trôi đến đâu. Nhìn những cánh hoa tàn lụi, nàng lại càng thấy buồn hơn vì thấy hình ảnh của chúng mình ở trong đó, lênh đênh và vô định giữa sóng gió cuộc đời. Đây cũng chính là hoàn cảnh rất tội nghiệp, đáng thương của nàng. Số phận của mình cũng không được làm chủ, bị đưa đẩy và vùi dập. Tâm trạng cô đơn và bơ vơ càng được tô đậm hơn nữa.

Nhìn ra một hướng khác cũng chỉ có nội cỏ bủa vây ở bốn phía. Màu xanh tàn tạ và héo úa, nhạt nhòa, đâu còn là màu xanh non tươi tốt, mỡ màng đến tới chân trời của cảnh ngày xuân nữa. Màu xanh ấy gợi lên trong Kiều nỗi buồn vô vọng vì cuộc sống quẩn quanh và bế tắc. Hai câu thơ cuối cùng cả tình và cảnh đã đạt tới độ điêu luyện. Nỗi buồn mỗi lúc một tăng và dồn dập xô tới. Tiếng sóng ầm ầm ấy cũng chính là biết bao nhiêu phong ba bão táp đổ ập xuống cuộc đời của Kiều. Lúc này không còn là lo âu mà đó là sự kinh sợ, dần rơi vào vực thẳm của sự bất lực.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc, kết hợp với vốn ngôn từ phong phú, Nguyễn Du đã xây dựng rất thành công bức tranh chân dung về tâm trạng Thúy Kiều. Tấm lòng nàng ngổn ngang và đầy giông bão, nàng bất lực phải chờ đợi những khó khăn ở phía trước. Những vần thơ cũng cho thấy được tấm lòng cảm thông mà Nguyễn Du dành cho những người phụ nữ với số phận bất hạnh.

Bài tham khảo 3:

Đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" có 22 câu, trích trong "Truyện Kiều" được xem là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình" (Tố Hữu) . Bao biến cố khủng khiếp đã xảy ra: tai bay vạ gió, cha và em đều bị tù tội, gia sản bị bọn sai "đầu trâu mặt ngựa" cướp "sạch sành sanh" ... , phải bán mình đi để chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay của Mã Giám Sinh – Tú Bà. Sau khi "thất thân" bởi Mã Giám Sinh, bị mụ Tú Bà làm nhục thì Kiều tự vẫn nhưng rồi được cứu sống. Tú Bà đã dỗ dành Kiều:

" Người còn thì của hãy còn,

Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà ..."

Kiều được Tú Bà đưa đến lầu Ngưng Bích với lời hứa "con hãy thong dong" , nhưng sự thật là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều ở trên con đường lưu lạc đầy máu cùng với nước mắt, cay đắng và tủi nhục trong suốt 15 năm trời.

Đoạn thơ không chỉ biểu lộ được tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện được một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự và về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để có thể biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

Sáu câu đầu là một không gian nghệ thuật và cũng là tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có "non xa" và "tấm trăng gần"; có cả "cát vàng cồn cọ" và " bụi hồng dặm kia". Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không có lấy một bóng người, Kiều chỉ còn biết " Bốn bề bát ngát xa trông". Một cảm giác rất cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho chính thân phận của mình, duyên số của mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với " mây sớm đèn khuya", nỗi lòng người con gái bị lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán biết bao:

" Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

Bốn chữ "như chia tấm lòng" diễn tả về một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát và đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và có trăng gần- nhưng nàng vẫn luôn cảm thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi vì "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Kiều sao không khỏi sự cô đơn và bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy sự bi kịch:

" Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu"

Tám câu thơ tiếp theo nói về niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương cha mẹ của Thúy Kiều khi phải sống một mình ở trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều " tưởng người ... ". Còn với cha mẹ thì nàng đã "xót người ... ", mỗi đối tượng Kiều lại có một nỗi thương nhớ khác.

Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Trì, Kiều thương Kim Trọng phải chịu cô đơn và đau khổ "Một trời thu để riêng ai một người". Đối với cha mẹ Kiều khắc khoải "Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn." Lần này, Kiều tưởng nhớ đến chàng Kim, nhớ về lời thề dưới trăng đêm tình tự "dưới nguyệt chén đồng", thương người yêu phải đau khổ "rày trông mai chờ" và "bơ vơ" cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới nguôi ngoai, mới "phai" được nỗi thương nhớ đó? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như là: "dưới nguyệt chén đồng", "rày trông mai chờ", "tin sương", "bên trời góc bể", "tấm son gột rửa" ... đã diễn tả và bộc lộ một cách vô cùng sâu sắc, cảm động tình cảm thương nhớ mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà phải chia lìa đau đớn:

" Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai..."

Các động từ - vị ngữ: "tướng", "chờ", "trông", "bơ vơ", "gột rửa", "phai" ... đã liên kết với nhau thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt được nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ thương người yêu khôn nguôi, xót xa cho chính mối tình đã nặng lời thề son sắt nhưng bị tan vỡ!

Nhớ chàng Kim rồi Kiều lại xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: "hôm mai", "cách mấy nắng mưa", những thi liệu, điển cố văn học Trung Hoa như: "sân Lai", "gốc tử" và thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", đặc biệt là hình ảnh mẹ già "tựa cửa hôm mai" đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc ở quê người đã cực tả nỗi nhớ thương của cha mẹ, nỗi đau buồn của người con gái đầu lòng không thể hay thực tế là không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu và khi "gốc tử đã vừa người ôm".

Nguyễn Du đã sử dụng đến ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển với phong cách dân tộc, tạo ra những vần thơ biểu cảm thể hiện được một tâm trạng bi kịch và một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa "trâm gãy gương tan" nàng vẫn muốn dành cho "người tình chung" bao tình thương nhớ "muôn vàn ái ân". Là một đứa con có hiếu, giàu đức hi sinh, khi cha mẹ già yếu không còn được sớm hôm phụng dưỡng, Kiều càng nhớ thương lại càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm thía vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:

" Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm"

Tám câu cuối, đoạn điệp ngữ "buồn trông" được xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát. Hai chữ "buồn trông" chính là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng "tê tái" đau thương; thương mình và cũng thương người thân, thương cho thân phận và duyên số ... . "Buồn trông" vì càng buồn thì lại càng trông, càng trông rồi lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất ở trong " Truyện Kiều". Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng "buồn trông". Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên lẫn diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả thông qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng rất bi thương:

" Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"

Cửa bể mênh mông vào ngày tàn chiều hôm càng làm tăng thêm nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc. "Thuyền ai" lúc ẩn lúc hiện "thấp thoáng cánh buồm xa xa" đầy sự ám ảnh. "Buồn trông" con thuyền ai xa lạ, cánh buồm cứ xa xa "thấp thoáng" , Kiều càng nghĩ tới thân phận bơ vơ của mình ở nơi quê người đất khách.

Rồi nàng lại "buồn trông" về "ngọn nước mới sa", dői theo những cánh hoa đang trôi dạt và tự hỏi "về đâu" tới phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác đó tượng trưng cho số phận chìm nổi ở trên dòng đời không biết về đâu - Kiều nhìn hoa trôi ở trên ngọn nước mà cảm thương cho chính số phận của mình:

" Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?"

Sau hai câu hỏi tu từ về "thuyền ai" và về hoa trôi "biết là về đâu?", Kiều "buồn trông" về bốn phía "chân mây mặt đất" về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy ở trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la chính là màu sắc tàn úa và vàng héo "dầu dầu" của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương đó đã phản chiếu nỗi đau tê tái của một người con gái bị lưu lạc:

" Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh"

"Nội cỏ dầu dầu" tàn úa hiện ra giữa màu "xanh xanh" nhạt nhòa của "chân mây mặt đất" chính là tâm trạng vô cùng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt. Sắc cỏ "dầu dầu" ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào ở trên mộ Đạm Tiên.

" Sè sè nấm đất bên đường,

Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh"

Nhìn xa rồi lại nhìn gần, vừa "buồn trông" lại vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió, gió gào và "gió cuốn" trên mặt duềnh. Nghe tiếng "ầm ầm" của sóng, không phải là sóng reo mà là "sóng kêu". Gió và sóng đang bủa vây "xung quanh ghế ngồi". Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút vô cùng hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa vô cùng khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận của người con gái nhỏ bé đáng thương? Kiều buồn trông mà thật lo âu sợ hãi:

" Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Bức tranh "nước non người", cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm xa xa ở trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa một màu xanh xanh của chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu ở nơi mặt duềnh ... mang ý nghĩa tượng trưng và rất giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc đó, âm thanh đó của thiên nhiên vừa bao la lại vừa mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây lấy người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng và lẻ loi.

Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu lẫn nước mắt có "ma đưa lối, quỷ đem đường" ... đối với Kiều vẫn đang ở phía trước. Đoạn thơ: "Kiều ở lầu Ngưng Bích " như chất chứa đầy lệ. Lệ của người con gái bị lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương và chua xót vì mối tình đầu đã tan vỡ, xót xa vì thương nhớ đến mẹ cha, lo sợ cho thân phận và số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm và xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo nhưng bạc mệnh.

Các từ láy: bát ngát, bơ vơ, bẽ bàng, thấp thoáng, man mác, xa xa, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm ... kết hợp với điệp ngữ "buồn trông" đã tạo ra sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm thêm cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Đó chính là giá trị văn chương đích thực của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".

 

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện) trên đây VUIHOC đã hướng dẫn cho các em vô cùng chi tiết. Những bài viết tham khảo này sẽ giúp các em biết được cách phân tích các tác phẩm truyện văn học hay và đặc biệt nhất.

Ngoài bài soạn này ra, nếu muốn tham khảo thêm về những bài soạn văn khác hay những bài soạn khác có trong môn học khác thì em hãy nhanh tay truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC đó là vuihoc.vn để có thể đăng ký cho mình khoá học một cách nhanh chóng và được giải đáp trực tiếp từ thầy cô giáo có chuyên môn cao và đầy nhiệt huyết của VUIHOC nhé!

 

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-viet-bai-van-nghi-luan-phan-tich-mot-tac-pham-van-hoc-truyen-van-9-tap-1-ket-noi-tri-thuc-4153.html