Dưới đây là phần Soạn bài Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Bài viết sẽ giúp các em nghe, nhận biết cũng như đánh giá được những ý kiến của những tác giả, nhà văn về một số tác phẩm nghệ thuật. Cùng VUIHOC tham khảo ngay bài viết chi tiết này nhé!

 

Soạn bài Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến Văn 9 tập 1 Cánh diều

1. Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, làm sáng tỏ về ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Bài văn tham khảo:

Xin chào thầy giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Lan, học sinh lớp 9A. Hôm nay em xin được trình bày ý kiến của mình về đề văn: Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, làm sáng tỏ về ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học nên đã có rất nhiều người yêu thích và sáng tác những tác phẩm văn thơ vịnh về tác phẩm Truyện Kiều. Trong đó có những câu thơ hết sức hay vịnh về nàng Kiều khi nàng ở lầu Ngưng Bích.

Một mình đối diện với mình

Mênh mông trăng gió vô tình thoảng qua

Mong manh như một nhành hoa

Ầm ầm tiếng sóng biết là về đâu?

Chưa đi đến thuở bạc đầu

Mà sao như đã nhuốm màu hư vô?

Đó là những câu thơ người ta vịnh về tâm trạng của nàng Kiều khi tác giả Nguyễn Du miêu tả về cảnh nàng bị Tú Bà giam lỏng tại lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm trong phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc" của tác phẩm "Truyện Kiều". Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã "thất thân" với hắn "đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ", nàng bị hắn đem bán vào lầu xanh. Biết mình bị lừa và phải làm một cái nghề dơ bẩn, Kiều uất ức và rút dao định tự vẫn. Tú Bà quá sợ hãi "Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma", nên nhanh trí, mụ liền vờ hứa hẹn đợi sau khi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào một nơi tử tế, rồi đưa Kiều giam lỏng tại lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện được âm mưu mới. Vì thế đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã dựng lên cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng vô cùng thủy chung và hiếu thảo của Thúy Kiều một mình bơ vơ ở nơi xứ người, đồng thời thông qua đoạn trích, người đọc có thể thấy được bút pháp "tả cảnh ngụ tình" độc đáo, đạt tới trình độ điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.

Trước hết là sáu câu thơ đầu tiên, tác giả nêu ra hoàn cảnh sống và nỗi niềm cô đơn và tội nghiệp của nàng Kiều. Ngay ở câu thơ mở đầu: "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân", Nguyễn Du đã nêu bật lên được cảnh ngộ vô cùng đáng thương của Kiều. "Khóa xuân" tức là khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về sự việc Kiều đang bị giam lỏng. Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều đã bị giam hãm, khóa kín ở trong cấm cung và không được giao tiếp với bất cứ ai bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù nhỏ giam lỏng cuộc đời của Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương và xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng.

Những câu thơ tiếp theo, tái hiện lại quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn và mênh mông được nhìn bằng con mắt đầy tâm trạng của Kiều:

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ hết sức đặc biệt: một mình, cô đơn và trơ trọi giữa một không gian mênh mông, rộng lớn: "bốn bề bát ngát". Đứng trên lầu mà ngước mắt lên trên trời cao, Kiều chỉ thấy được "non xa" và "tấm trăng gần". Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy một khoảng không trống vắng, xa xa thì là những con sóng lượn và những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như lấp lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng và lãng mạn nhưng lại đượm buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút nào bóng dáng sự sống của con người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả về cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng tìm kiếm một chút bóng dáng và sự sống ở xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng và tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó ở xung quanh mình. Sau này ở trong bài thơ "Tràng giang", Huy Cận cũng từng có những câu thơ:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Vì thế, ẩn sau ánh mắt nhìn "xa trông" như đang trông mong và ngóng chờ ấy chính là niềm mong mỏi, khát khao và đợi chờ một tương lai hạnh phúc ở phía trước nhưng trước không gian trống trải và hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ khiến cho Kiều trở nên thất vọng và cô đơn hơn mà thôi.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tính từ “bẽ bàng” gợi về sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ tới thân phận bé nhỏ và duyên phận của mình. Có lẽ, nàng cảm thấy vô cùng xấu hổ là vì đã bị Mã Giám Sinh lừa vào lầu xanh, còn nàng cảm thấy rất tủi thẹn là vì cảm thấy mình không còn xứng đáng với tình cảm mà Kim Trọng luôn mong chờ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi ra một vòng tuần hoàn thời gian khép kín và ẩn sau đó chính là sự cô đơn, đơn điệu và nhàm chán khi mà ở đó Kiều chỉ có một thân một mình phải đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn với mây trời, tối thì lại chỉ biết trò chuyện với cái bóng đèn. Vì thế tâm trạng của Kiều mới bị chia đôi thành hai ngả: “nửa tình - nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp tới bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp được tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.

Tóm lại: Dưới bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với những từ ngữ đậm tính tạo hình và biểu cảm, tác giả Nguyễn Du đã phác họa được khung cảnh lầu Ngưng Bích vô cùng rộng lớn, mênh mông và tuyệt nhiên không có bất cứ sự sống nào của con người. Đồng thời qua đó, tác giả còn cho thấy được tâm trạng vô cùng cô đơn, tủi hổ và bẽ bàng của Kiều khi bị giam lỏng ở trong lầu Ngưng Bích.

Trong nỗi cô đơn cố hữu đang bủa vây xung quanh mình, khi một mình Kiều phải bơ vơ ở dưới góc bể chân trời tại lầu Ngưng Bích thì nỗi nhớ gia đình và nỗi nhớ người yêu đến như một lẽ tất yếu, thực sự phù hợp với quy luật tâm lý của con người nơi xa quê. Tám câu thơ tiếp chính là nỗi niềm thương nhớ Kim Trọng cùng với cha mẹ của Kiều. Đến đây, chúng ta thấy được cách sử dụng từ rất đắc địa và khéo léo của nhà thơ. Để diễn tả về nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim, tác giả đã sử dụng động từ “tưởng”. Tưởng là nhớ đến mức hình dung ra Kim Trọng đang ở ngay trước mắt trò chuyện với Kiều. Kiều nhớ về đêm trăng thề nguyện, hai người cùng nhau uống chén rượu thủy chung, hứa sẽ ở bên nhau trọn đời. Nhưng bây giờ nàng đang bị lạc lőng ở một nơi đất khách, nên nàng tưởng rằng Kim Trọng đang đợi tin tức của mình, còn mình thì lại bặt vô âm tín:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Rồi nàng băn khoăn tự hỏi:

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Câu thơ có đến hai cách hiểu: Cách hiểu thứ nhất: Câu thơ như một lời khẳng định về tấm lòng son sắt và thủy chung của Kiều dành cho Kim Trọng dù trên bước đường đời có phải trải qua biết bao sóng gió thì tấm lòng son đó mãi vẹn nguyên. Cách hiểu thứ hai: câu thơ như một lời tự vấn lương tâm của Kiều và Kiều cho rằng tấm lòng son sắt của mình dành cho Kim Trọng đã bị hoen ố và đã bị dập vùi khi Kiều đã thất thân với Mã Giám Sinh cho nên không biết bao giờ mới có thể gột rửa cho sạch được vết nhơ nhuốc đó. Như vậy, trong nỗi nhớ chàng Kim, Thúy Kiều không chỉ bộc lộ về nỗi niềm mong ngóng khắc khoải mà còn bộc lộ cả về nỗi đau đớn, cùng cực và tủi hổ đến xé tâm can. Qua đó cho thấy được một tấm lòng thủy chung và son sắt của Kiều đối với Kim Trọng.

Sau nỗi nhớ người yêu thì Kiều tiếp tục nhớ đến cha mẹ - người thân yêu ruột thịt của chính mình:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Nếu như khi diễn tả nỗi nhớ chàng Kim của Kiều, Nguyễn Du sử dụng động từ "tưởng" thì khi diễn tả về tấm lòng hiếu lễ với cha mẹ của Kiều, tác giả lại sử dụng đến tính từ “Xót”. Xót nghĩa là thương hay thương tới mức xót xa trong lòng. Không xót xa sao được khi mà một đứa con hiếu thảo như Kiều lại cứ nghĩ về hình ảnh cha mẹ đang tựa cửa ngóng ngóng chờ con trở về, còn con thì vẫn bóng chim tăm cá và chẳng thấy đâu. Nàng còn lo lắng cho cha mẹ khi mà đã tuổi già sức yếu không biết có người chăm sóc cho không, hai em có làm tốt được nghĩa vụ và trách nhiệm của phận làm con hay không.

Cụm từ “cách mấy nắng mưa” mang tính chất gợi tả về thời gian, cho thấy được sự xa cách của biết bao nhiêu ngày mưa nắng nhưng cũng đồng thời gợi đến khoảng cách về không gian địa lí và sự xa xôi cách trở giữa nàng với cha mẹ biết bao giờ mới được gặp lại để làm tròn bổn phận của một người con. Qua tâm trạng xót xa, buồn tủi và lo lắng khi nhớ đến cha mẹ, gia đình của Kiều, chúng ta thấy được một tấm lòng thảo thơm và hiếu nghĩa của Kiều dành cho cha mẹ là vô cùng lớn lao, cao cả và thiêng liêng.

Tuy nhiên, một nàng Kiều hiếu thảo với cha mẹ như vậy, tại sao Kiều lại nhớ đến người yêu trước, sau đó mới nhớ về cha mẹ của mình. Có được điều ấy là một dụng ý nghệ thuật hết sức độc đáo của tác giả. Bởi hình ảnh của ánh trăng đang bắt đầu nhô lên ở nơi cửa ải xa xa kia khiến cho Kiều tức cảnh mà sinh tình, nhớ đến đêm trăng thanh thề nguyền giữa mình với Kim Trọng. Hơn thế, Kiều lại còn là một cô gái trẻ, Kim Trọng là mối tình đầu tiên của nàng, mà mối tình đầu của một cô gái bao giờ cũng vô cùng mãnh liệt. Chính vì thế, Kiều luôn luôn nhớ đến Kim Trọng, hình ảnh của Kim Trọng luôn thường trực ở trong lòng Kiều.

Đặc biệt, Kiều đã chịu bán mình để chuộc cha và em, giúp cho gia đình thoát khỏi cơn tai biến thế là coi như Kiều đã tạm làm tròn được bổn phận làm con đối với bậc sinh thanh; còn với Kim Trọng thì Kiều vẫn cảm thấy mình là một kẻ quá phụ tình, không còn trinh tiết đồng nghĩa với việc không còn xứng đáng với chàng Kim nữa. Đó là sự cắn rứt và đang dày vò ở trong trái tim nàng. Chính những lí do ấy mà Nguyễn Du đã miêu tả về nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim trước. Điều ấy chứng tỏ Nguyễn Du là một thi sĩ vô cùng am hiểu diễn biến tâm lí của nhân vật. Sự am hiểu tâm lí đó xuất phát từ tấm lòng yêu thương và trân trọng, ngợi ca con người của nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa.

Bài thơ khép lại với tám câu thơ cuối thể hiện về tâm trạng đau buồn và lo âu của Kiều thông qua cách nhìn cảnh vật.

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Điệp ngữ “buồn trông” được lặp đi lặp lại đến bốn lần. Đây là điệp ngữ liên hoàn và đồng thời cũng chính là điệp khúc của tâm trạng. Kiều buồn cho nên Kiều mới trông cảnh vật, khác với những đoạn trước, Kiều trông mới cảm thấy buồn. Ở đây, vì buồn cho nên trông, mà càng trông thì Kiều lại càng cảm thấy buồn. Nỗi buồn cứ thế điệp đi điệp lại và dâng lên thành lớp lớp sóng trào, cứ cuộn xoáy vào trong tâm khảm của Kiều mà trở thành một gánh nặng tâm tư.

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Chiều hôm chính là khoảng thời gian của buổi chiều hoàng hôn, khi mà mặt trời đã dần dần ngả về phía tây, bóng tối cũng bắt đầu xâm lấn. Xa xa chính là hình ảnh của một chiếc thuyền nhỏ bé và cô đơn thoát ẩn, nó thoát hiện thấp thoáng ở trên cửa biển; một cánh hoa đang trôi bất định ở trên dòng nước mà không biết mình đi về đâu. Hình ảnh của chiếc thuyền và cánh hoa được đặt trong thế tương phản đối lập với vũ trụ không cùng của trời đất mênh mang càng tô đậm thêm sự nhỏ bé, đáng thương, đơn độc và tội nghiệp. Đây chính là một hình ảnh ẩn dụ cho thân phận của Kiều lênh đênh và chìm nổi giữa dòng đời mà không biết sẽ trôi dạt về đâu.

Và đứng trước một không gian rộng lớn, bao la của trời đất, của buổi chiều hoàng hôn sắp tắt, nỗi nhớ nhà và nhớ người thân đến như một lẽ tất yếu ở trong lòng Kiều. Nhưng trong tình cảnh “bốn bề góc bể bơ vơ” thì Kiều biết bao giờ mới có thể được sum họp và đoàn viên cùng với gia đình, người yêu. Vì thế câu hỏi tu từ cứ thế réo rắt và khắc khoải trong lòng của Kiều, dấy lên niềm khao khát một ngày được trở về nhà, trở về quê hương, về nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Ngước mắt trông về phía xa của cửa biển thì Kiều chỉ càng cảm thấy rộng trống, cơ đơn và buồn tủi. Kiều quay trở về nhìn xuống dưới mặt đất quanh mình để tìm kiếm những sự sống của cảnh vật xung quanh thì lại chỉ thấy được những đám cỏ xanh héo úa và lụi tàn. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” là một hình ảnh nhân hóa, biểu hiện về tâm trạng của con người. Lòng người buồn cho nên nhìn đâu cũng cảm thấy buồn; nỗi buồn của Kiều như đang thấm vào cảnh vật khiến cho cảnh vật cũng bị nhuốm màu tâm trạng. Trong văn học từ xưa đến nay, màu sắc xanh thường khiến cho chúng ta nghĩ đến màu của sự sống và của sự sinh sôi bất diệt. Nhưng cũng có trường hợp, màu xanh có khi lại trở thành màu sắc của bi kịch con người.

Bài thơ “Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn đã diễn tả về nỗi nhớ của người chinh phụ đối với người chồng của mình ở nơi biên ải thông qua màu xanh ngắt của cỏ lá:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

Như vậy, màu xanh ngắt và xanh xanh của cỏ lá đã trở thành màu sắc của sự xa cách, sự li biệt và nhạt nhòa. Nay từ “xanh xanh” lại xuất hiện ở trong câu thơ của tác giả Nguyễn Du nên màu sắc đó biểu trưng cho sự nhạt nhòa, sự vô vọng, chán nản của Kiều trước một khung cảnh rất thiếu vắng sự sống, cô đơn lại thật tẻ nhạt.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nếu như những bức tranh thiên nhiên ở bên trên đều được tái hiện trong trạng thái tĩnh thì khép lại bài thơ, bức tranh thiên nhiên đã được miêu tả trong trạng thái động. Đó là âm thanh dữ dội của gió và của sóng; gió khiến cho mặt biển tung lên những con sóng ồ ạt và đập vào bờ mà phát ra tiếng kêu. Nhưng quan trọng, tiếng sóng đó không đơn thuần là những con sóng thực ở ngoài biển khơi mà đó còn là con sóng lòng trong tâm trạng.

Điệp khúc “buồn trông” ở những câu thơ phía trên kết đọng và tích tụ rồi dồn đẩy xuống câu thơ cuối cùng khiến cho nỗi buồn ngày càng trở nên chồng chất hơn như lớp lớp sóng trào. Đồng thời, tiếng sóng “ầm ầm” dữ dội đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời phong ba bão táp đã và đang đổ ập xuống cuộc đời Kiều, đổ ập xuống đôi vai vốn gầy yếu của một cô gái trẻ đáng thương và tội nghiệp. Vì thế mà lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn cảm thấy lo lắng và sợ hãi như đang bị rơi xuống vực thẳm một cách bất lực.

Tóm lại: Tám câu thơ cuối, Nguyễn Du đã sử dụng vô cùng tài tình bút pháp “tả cảnh ngụ tình” của văn học cổ điển nhằm diễn tả tâm trạng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” của Kiều khi nàng bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. Mỗi câu thơ là một bức tranh thực cảnh cũng chính là thực tình của một con người mang trong mình một nỗi buồn đau chồng chất. Đó chính là nỗi đau đớn, lo lắng, xót xa và khắc khoải của một kiếp má đào, vô định, trôi nổi, mong manh và bế tắc không biết sẽ đi về nơi đâu. Vì thế, dù cho nàng “Thông minh vốn sẵn tính trời” nhưng đang phải đứng trước sự tuyệt vọng và yếu đuối của bản thân, Kiều đã bị Sở Khanh lừa gạt để rồi dấn thân vào một cuộc đời chất chứa đầy sóng gió và truân chuyên “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

2. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rő nét sắc thái của ngôn ngữ Nam bộ. Hãy làm rő ý kiến đó qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.

Bài văn tham khảo:

Xin chào cô giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Lan, học sinh lớp 9C, trường THCS An Thượng, hôm nay em xin được trình bày ý kiến của mình về đề văn: Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rő nét sắc thái của ngôn ngữ Nam bộ. Hãy làm rő ý kiến ấy thông qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn và nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không hề có sự chau chuốt và cầu kỳ về câu từ mà lại vô cùng mộc mạc và dân dã gắn liền với đời sống của những con người Nam Bộ. Vì thế trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du rất nổi tiếng với kiệt tác Truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả ở trong nước và nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà và văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào trong đời sống, trở thành một phần đời sống của những người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc giống như những bài đồng dao dân gian. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng vì chính chất mộc mạc và gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng của thơ văn trong tác phẩm này.

“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn trong tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa và vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hoặc e ngại những tai họa có thể đến mà hết lòng ra tay để cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp ở trong phẩm chất cũng như tâm hồn của nhân vật Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ chính tấm lòng mà không hề tính toán tới việc thiệt hơn hay báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng rất đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được Lục Vân Tiên cứu giúp, nàng đã thể hiện những phẩm chất vô cùng tốt đẹp như trọng ân nghĩa và hiền thục đoan trang và nàng còn là một người con có hiếu.

Mở đầu đoạn trích, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách rất chân thực và sống động những hành động của nhân vật Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay để diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó được làm tổn hại hay gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động rất đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý và đáng trân trọng.

“Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

Câu thơ miêu tả về những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp đang hoành hành và gây họa cho người dân, bản tính cương trực và căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc cho Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ xảy ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ hay tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng đã lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy để bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống cho nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn một cành cây bên đường để làm vũ khí để diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa ở trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách vô cùng cương trực và thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.

Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy sự cao đẹp của chàng, sống là phải hướng tới bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang tới những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn và “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó được xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một chàng trai có tình thương với con người, mang trong mình một tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai vô cùng khỏe mạnh và tài giỏi, điều này được thể hiện ra ở trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:

“Vân Tiên tả đột hữu xông

.............

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”

Những động tác của Vân Tiên đều vô cùng dứt khoát và nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, những hành động anh hùng ấy được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh của người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp đã bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn mà bỏ lại gươm giáo để tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng đó chính là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy mà “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt vô cùng thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui và làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp này Lục Vân Tiên tuyệt đối không một chút khoan nhượng, lời nói lẫn hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên hết sức dịu dàng và phải phép:

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong

Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”

Không chỉ ra tay cứu giúp những người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm tới họ, thể hiện ngay ở lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp cho người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết được tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng chính là không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa họ nữa. Và phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi mà chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức là Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước chân ra khỏi kiệu để cúi lạy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất định không chịu nhận:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái ta là phận trai”

Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể cảm nhận được Lục Vân Tiên là một con người rất trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép ở trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài phải cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt đó ảnh hưởng tới phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến ngày xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có một khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động quá đỗi thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện rằng chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói đó trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đó đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ là vì lễ tiết mà chàng cũng thực sự không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng chỉ xuất phát từ tấm lòng chứ không vì mục đích vụ lợi gì cả “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng khiến cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn bao giờ hết.

“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là việc tất yếu, và nếu làm ơn mà cứ trông ngóng việc trả ơn thì không phải là người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" đã khắc họa vô cùng chân thực và sống động hình ảnh của người anh hùng hiệp nghĩa Lục Vân Tiên, ở chàng hiện ra với biết bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp, không chỉ là con người nhân nghĩa, thấy việc ác là sẽ ra tay diệt trừ, bảo vệ được sự bình yên cho con người mà chàng còn là một con người có học thức, biết trọng những lễ nghi và khuôn phép. Và ở chàng trai ấy ta cũng có thể thấy được một quan niệm sống vô cùng tốt đẹp, đó chính là quan niệm về việc nghĩa và về anh hùng. Khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên cũng là cách mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng trong đời.

 

 

Trên đây là hai bài văn mẫu đại diện cho hai đề bài thuộc phần Soạn bài Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến| Văn 9 tập 1 Cánh diều. Hy vọng rằng, khi các em tham khảo bài soạn này, các em có thể hiểu cách mà tác giả muốn triển khai, cũng như đánh giá được tính thuyết phục của một ý kiến bình luận văn học bất kỳ. Ngoài bài soạn này ra, nếu các em mong muốn tham khảo thêm những bài soạn văn khác hay những bài soạn khác của các môn học khác thì cần nhanh tay truy cập vào website chính thức của VUIHOC chính là vuihoc.vn để có thể đăng ký khoá học cho mình một cách nhanh chóng và được giải đáp thắc mắc trực tiếp từ thầy cô giáo với trình độ chuyên môn cao và tràn đầy nhiệt huyết của VUIHOC nhé!

Nguồn:

https://vuihoc.vn/tin/thcs-soan-bai-nghe-va-nhan-biet-tinh-thuyet-phuc-cua-mot-kien-van-9-tap-1-canh-dieu-4290.html